Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lê-nin đã tạo ra sự phát triển mang tính bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại.

Bài 2: 

“Lý luận là màu xám, còn cây đời mãi xanh tươi” (Gớt). Linh hồn và sự sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin chính là thế giới quan, phương pháp luận; là tinh thần phê phán, đổi mới và sáng tạo không ngừng; nguyên lý thực tiễn là tiêu chuẩn cao nhất của chân lý; tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội; mối quan hệ biện chứng giữa nền tảng kinh tế quyết định kiến trúc thượng tầng; chủ thể của lịch sử là quần chúng nhân dân; phản đối sự tha hoá của con người, chủ trương phát triển con người toàn diện... 

Những nguyên lý này không chỉ đúng trong thế kỷ XIX hay thế kỷ XX mà còn đúng trong thế kỷ XXI và về sau nữa, vì đó là những quy luật khách quan trong xã hội có giai cấp. Chính vì vậy, công cuộc xây dựng CNXH ở Việt Nam phải dựa trên lập trường, quan điểm, phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải tuân thủ các nguyên tắc cơ bản, lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Một số người phê phán chủ nghĩa Mác - Lê-nin chỉ tập trung vào C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê-nin mà tách rời hoặc đối lập các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin với những người phát triển về sau, muốn xoá bỏ toàn bộ sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong suốt hơn một thế kỷ qua để chứng minh chủ nghĩa Mác - Lê-nin là giáo điều, là xa rời thực tiễn.

Sai lầm của quan điểm này là ở chỗ không nhận thức được tính sáng tạo của chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà chính tính sáng tạo, khả năng phát triển liên tục này đã làm nên sức sống của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Nói cách khác, chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một chủ nghĩa phát triển và các thế hệ các nhà mác xít sau này đã kế thừa, phát triển.

Ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không chỉ vận dụng tài tình chủ nghĩa Mác – Lê-nin vào hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam mà còn có cống hiến to lớn cho sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Do chủ nghĩa Mác - Lê-nin có bản chất sáng tạo, luôn phát triển nên nó không bị lỗi thời, lạc hậu.

Có một số người đặt vấn đề là nếu chủ nghĩa Mác - Lê-nin có giá trị, vậy phải liệt kê ra một danh mục các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin có tính phổ biến, tuyệt đối đúng trong mọi không gian, mọi thời gian, áp dụng được vào mọi đối tượng, mọi hoàn cảnh mà nếu không làm được như vậy thì rõ ràng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không có giá trị.

Quan điểm này rõ ràng sai lầm vì đã đi ngược lại chính tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhiều lần nhấn mạnh lý luận của mình không phải là một thứ giáo điều để tuyệt đối tuân thủ hoặc áp dụng một cách máy móc.

Học thuyết mà các nhà kinh điển đưa ra không phải là một loại giáo lý tôn giáo mà chính là phương pháp. Do đó, người mác - xít chân chính bao giờ cũng gắn chặt lý luận với thực tiễn, dùng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin để phân tích những vấn đề do thực tiễn cuộc sống đặt ra.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là một công thức đơn giản để áp dụng trực tiếp mà nó mang tinh thần phê phán, sáng tạo, thực tiễn, liên tục phát triển. Từ góc độ này thì chúng ta thấy thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý chính là nguyên tắc nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Có một số người muốn biến lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin thành một vài kết luận cụ thể để vận dụng, song cả C.Mác và Ph.Ăngghen đều nhấn mạnh đến việc mỗi một vấn đề phải có các cách phân tích khác nhau chứ không có một giáo điều lý luận để áp dụng cho mọi sự vật hiện tượng.

Chính vì vậy mà việc một số người nhận thức thực tiễn không sâu sắc, áp dụng một cách cứng nhắc lý luận vào thực tiễn để rồi thấy không phù hợp, đòi vứt bỏ lý luận, vậy sự không phù hợp đó không phải là lỗi của lý luận, mà chính là do thiếu tính thực tiễn, tính khoa học của chủ thể hành động.

Chính vì vậy mà việc dò từng câu, từng chữ trong kinh điển để mong tìm ra những viên ngọc nhằm làm bảo bối để giải quyết mọi vấn đề, theo tôi không phải là phương pháp duy nhất đúng đắn, cũng không phải là cách làm hiệu quả vì không xuất phát từ tính khoa học, tính thực tiễn, cũng như không phù hợp với thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Ở đây có một điểm đáng lưu ý là cần phân biệt một vài luận điểm có thể đã lạc hậu trong các trước tác của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê--nin với quan điểm cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã lỗi thời. Chúng ta nhấn mạnh đến giá trị, vai trò và ý nghĩa hiện thời của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, song không phủ nhận C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lê-nin rất có thể có một vài phân tích, phán đoán chưa đúng với thực tế hoặc không phù hợp với thời đại ngày nay. Chúng ta cần phân biệt rõ một vài phán đoán cụ thể của các nhà kinh điển với chỉnh thể hệ thống chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thêm nữa, bản thân trong các trước tác của mình, C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã không chỉ một lần dũng cảm phê phán một vài luận điểm trước đây của mình một cách thẳng thắn, chân thành. Sự phản tỉnh, tự phê của các nhà kinh điển đã thể hiện tinh thần khách quan, tính khoa học đáng quý, đồng thời cũng bảo vệ tính chân lý của chỉnh thể hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Trong lịch sử chỉ có chủ nghĩa Mác - Lê-nin là một học thuyết phê phán CNTB sâu sắc nhất, triệt để nhất. Sự vạch trần và phê phán đến tận cốt tuỷ này đã khiến CNTB sinh ra sự thù hận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đồng thời cũng khiến CNTB không thể không tự sửa chữa những sai lầm của mình, mong muốn dùng các biện pháp cứu vãn như xây dựng nhà nước phúc lợi, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo... để điều hoà mâu thuẫn xã hội và mâu thuẫn giai cấp.

Có người cho rằng chủ nghĩa Mác - Lê-nin không còn thích hợp trong thời đại toàn cầu hoá. Rõ ràng hiện nay CNTB chiếm địa vị chủ đạo trong quá trình toàn cầu hoá song chủ nghĩa Mác - Lê-nin vẫn là công cụ lý luận để chúng ta nhận thức những biến động mới của CNTB. Sau khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở phương Tây, nhiều học giả trên thế giới đã phải tìm đọc lại bộ Tư bản.

Mặc dù không có những dự báo cụ thể về những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, song C.Mác đã bàn đến vấn đề cốt lõi, đó chính là mâu thuẫn nội tại của CNTB: Mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá lý luận sản xuất ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN.

Sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã tạo ra sự phát triển mang tính bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Các phương diện triết học, kinh tế chính trị học, CNXH khoa học trong chủ nghĩa Mác - Lê-nin có những đóng góp vô cùng to lớn, thể hiện tập trung nhất ở tính khoa học của thế giới quan chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, của học thuyết về quy luật vận hành và mâu thuẫn nội tại của CNTB, của học thuyết về xu hướng phát triển tất yếu của xã hội tư bản.

Dù đã hơn 100 năm qua đi, song vẫn chưa có một hệ thống học thuyết nào có thể so sánh với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính vì vậy, Giắccơ Đêriđa đã viết cuốn “Những bóng ma của Mác” (Tham khảo Giắccơ Đêriđa, “Những bóng ma của C.Mác” (Sách tham khảo), Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Tổng cục II Bộ Quốc phòng, Hà Nội, 1994), mô tả những con người trong xã hội hiện đại đều là những bóng ma đứng dưới cái bóng của C.Mác, ý nghĩa là chúng ta đều chịu ảnh hưởng của C.Mác, ngoài những người theo chủ nghĩa Mác – Lê-nin thì bản thân những người phê phán C.Mác cũng gắn chặt với C.Mác, và ông cho rằng sẽ không thể có tương lai nếu không có các di sản của C.Mác.

Như trên đã trình bày, những thay đổi tích cực trong nhiều thập kỷ qua của các nước tư bản không thể không nhắc đến nguyên nhân từ sự phê phán của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Chính vì vậy mà học giả người Anh Terry Eagleton trong cuốn sách “Vì sao Mác đúng” (Terry Eagleton, “Why Marx Was Right”, Yale University Press, April, 2011) đã nói chủ nghĩa Mác giống như bác sĩ, khi mà cơ thể khoẻ thì sẽ không để ý, song một khi CNTB gặp vấn đề nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác lại phát huy tác dụng phê phán vốn có của mình.

Terry Eagleton nhấn mạnh CNTB càng ổn định thì càng chứng minh những giá trị của chủ nghĩa Mác. Giá trị của chủ nghĩa Mác thể hiện ở bản chất sáng tạo, mỗi khi đối diện với thực tiễn mới, vấn đề mới thì lại có năng lực sáng tạo mới.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là một loại khoa học thực chứng hay là một hệ thống tri thức cố định, mà là một hệ thống lý luận mang tính phê phán đối với các vấn đề trọng yếu của thời đại. Đây chính là nền tảng cho tính sáng tạo và tính thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. 

Những vấn đề đương thời của C.Mác có rất nhiều, trong đó nổi lên là vấn đề CNTB. Kinh tế thị trường định hướng XHCN của chúng ta ngày nay chính là phát huy sức mạnh động lực thị trường, đồng thời dùng giá trị ưu việt của CNXH để khống chế mặt trái của chính thị trường. Ở đây, chúng ta đã phát huy được những giá trị đương thời trong lập trường và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin.

Sau khi khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở phương Tây, nhiều học giả trên thế giới đã phải tìm đọc lại bộ “Tư bản”. Mặc dù không có những dự báo cụ thể về những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, song C.Mác đã bàn đến vấn đề cốt lõi, đó chính là mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản: Mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hoá lý luận sản xuất ngày càng cao với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa./.

                                             GS.TS. Nguyễn Quang Thuấn,

                             Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

                                                       Thanh Huống (s/t)

Bài viết khác: