Đến miệt Tri Tôn, hỏi thăm thầy Chau Mô Ni Sóc Kha thì hầu như ai cũng biết. Không chỉ biết qua loa, mà mọi người thường nói về kru (thầy) Kha một cách tỉ mỉ, tường tận, với một thái độ trân trọng, bởi kru là một trí thức tiêu biểu, có nhiều đóng góp tích cực cho đồng bào Khmer nơi đây.
Người thầy hết lòng vì sự nghiệp giáo dục
Tôi đến thị trấn Tri Tôn khi sương mờ còn phủ giăng phố núi. Cái bãng lãng của một vùng đất lạ vào mỗi sớm mai có sức hút với tôi rất mãnh liệt. Tôi chạy lang thang, ngắm nhìn những chuyển động đầu tiên của ngày mới. Bình minh ửng hồng một góc trời Tà Pạ. Người dân ba dân tộc Kinh - Hoa - Khmer anh em đang thong thả dọn những gian hàng chuẩn bị buổi họp chợ. Tôi mải mê ngắm nhìn những chuyển động của thị trấn yên ả thanh bình, đến hơn 07 giờ sáng mới hỏi đường đến trường Dân tộc nội trú THCS Tri Tôn tìm thầy Kha. Tôi hỏi một bà cụ người Khmer đang bán xoài bên đường, bà nói tiếng Việt giọng lơ lớ “Trường của Kru Kha hả, đi qua cầu Cây Me rồi quẹo trái một chút sẽ gặp. Kru Kha dạy con tôi học chữ. Kru Kha giỏi lắm, tốt lắm”. Tôi cảm ơn bà cụ rồi chạy theo hướng bà chỉ, lòng chợt nghĩ, ông thầy này phải sống gần dân lắm, gắn bó với dân lắm họ mới hiểu biết và trân trọng ông như thế. Đang miên man nghĩ thì tôi bỗng bắt gặp ngôi trường nằm nép mình ở một góc thị trấn, cây cối xanh phủ xung quanh. Thấy tôi bước vào trường, mấy em học sinh lễ phép chắp tay chào theo cách truyền thống của người Khmer. Khi biết tôi cần gặp thầy Kha - Hiệu trưởng Nhà trường, hai em học sinh lễ phép dẫn tôi đến tận phòng làm việc của thầy.
Thầy Chau Mô Ni Sóc Kha đang nghiên cứu biên soạn từ điển Việt - Khmer tại nhà riêng
Trước mắt tôi là người đàn ông trạc năm mươi tuổi, dáng vẻ rắn rỏi, đôi mắt sáng với ánh nhìn ấm áp nồng hậu. Đó là đôi mắt khiến người ta thấy được sự thân thiện, có thể trao gởi niềm tin tuyệt đối. Thầy bắt tay tôi thật chặt rồi cùng ngồi trò chuyện, giọng thầy âm vang. Đã nghe nói về thầy nhiều, cũng tìm hiểu về thầy chút ít, nhưng khi tiếp xúc với thầy, tôi vẫn không khỏi ngạc nhiên. Trò chuyện với tôi dường như không phải là một cán bộ quản lý giáo dục, một vị Hiệu trưởng mà là một người thầy bình dị, nhiệt thành. Mới gặp thầy lần đầu mà tôi ngỡ như đã quen biết nhau từ lâu, như đã thâm giao quá đỗi. Tôi bỗng nhớ, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường từng viết đại ý là, có những người, dù ta đã nghe tiếng họ, đã biết nhiều về họ nhưng khi gặp ta vẫn có những ấn tượng đẹp đẽ pha chút bỡ ngỡ. Như cây ngọc lan cổ thụ mọc trong khu vườn rậm, từ xa ta đã nghe thoang thoảng hương đưa, càng đến gần hương càng ngào ngạt, nhưng khi bắt gặp thân cây đang trĩu hoa khoe sắc, cây già mà hoa trẻ, ta vẫn xúc động bồi hồi.
Trò chuyện với thầy, tôi được biết, thầy sinh ra và lớn lên tại mảnh đất miền núi Tri Tôn đầy nắng gió nên ngay từ nhỏ đã nung nấu tâm nguyện đóng góp cho quê hương. Thời sau giải phóng, đời sống đồng bào dân tộc Khmer nơi đây còn nhiều khó khăn, thầy phải vượt qua hoàn cảnh nghèo khó của gia đình để đeo đuổi sự học, quyết tâm thay đổi cuộc đời bằng tri thức. Những năm học cấp 3, thầy phải đi tu tại chùa theo phong tục người Khmer vậy mà vẫn mặc áo cà sa đi học ở trường. Học hết phổ thông, thầy theo học lớp Bồi dưỡng về quản lý hành chính tại Trường Quản lý Hành chính tỉnh An Giang, sau đó về công tác tại Ban Tuyên huấn Huyện ủy Tri Tôn.
Những năm 1985 đến 1990, vùng đất Tri Tôn còn hoang sơ lắm, thầy như đang hướng về một vùng ký ức xa xưa. Thầy Kha nhớ lại, có những ngày cuối tuần, thầy cùng gia đình đi đốn củi trên núi Cô Tô hay trên đồi Tà Pạ, thỉnh thoảng bắt được rắn, trăn, khỉ... Cảnh vật hoang sơ, người dân chất phác thuần hậu, nhưng điều đáng nói là, dân cư khu vực này hầu hết là người Khmer, đời sống vật chất và tinh thần còn nhiều khó khăn, số người biết tiếng Việt rất ít, vì vậy mà việc chuyển tải những chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến với người dân hết sức nhiêu khê. Là một cán bộ tuyên huấn thông thạo cả tiếng Khmer lẫn tiếng Việt, lại từng được tu học trong chùa, nắm vững văn hóa và tập tục tập quán của đồng bào Khmer, nên thầy Kha tiếp cận bà con Khmer khá thuận lợi. Khi người dân Khmer chưa thấu hiểu hoặc chưa chấp hành tốt chính sách, thầy Kha thường tận tình giảng giải khiến người dân thông suốt và vui vẻ chấp hành.
Cũng trong giai đoạn này, thầy Sóc Kha nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và nhận ra chân lý trong lời dạy của Bác: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu” (Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, 2000, tập 4, tr.8). Lời dạy đó cũng đúng với tinh thần mà người dân Khmer hay dạy cho con cháu, thông qua các câu tục ngữ, danh ngôn truyền từ bao đời như: “Chữ phát triển thì dân tộc hùng mạnh”; “biết từ học, giàu có từ tìm kiếm” hay “lười làm ăn thì không giàu, lười học thì dốt”... Bởi thế, thầy đã mạnh dạn đăng ký học Đại học Sư phạm Ngữ văn, trước hết là để trang bị tri thức cho bản thân, kế đến là mong muốn trở thành một người thầy truyền dạy tri thức cho con em dân tộc Khmer ở quê nhà. Tôi hỏi thầy sao lại học Sư phạm Ngữ văn mà không phải ngành nào khác. Thầy bảo, văn chương có sức lay động con người, “văn học là nhân học”, nếu dạy văn đúng nghĩa, có thể đánh thức được những khát vọng đẹp đẽ trong tâm hồn con người. Chính Bác Hồ cũng là người dùng văn thơ để làm cách mạng, xem văn học nghệ thuật là một mặt trận văn hóa tư tưởng. Là một người từng đọc nhiều tác phẩm của Bác, và bản thân cũng từng sáng tác, nghiên cứu văn thơ, thầy Kha chọn Sư phạm Ngữ văn làm một hướng đi đầy tính nhân văn. Tôi chợt nhớ đến đại văn hào Lỗ Tấn. Ông cũng làm nhiều nghề trước khi trở thành nhà văn, bởi Lỗ tiên sinh phát hiện ra rằng, xã hội không thể văn minh phát triển được nếu trong cơ thể khỏe mạnh của con người lại chứa đựng một tâm hồn bệnh hoạn. Mà văn chương lại có thể làm tráng kiện cái phần hồn của con người, vậy nên tiên sinh chọn văn chương làm cứu cánh.
Thầy Kha tâm sự, khi tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ngữ văn, thầy chuyển về dạy tại Trường THPT Dân tộc Nội trú An Giang. Đó cũng là khoảng thời gian thầy đem những giá trị cao đẹp của văn chương truyền dạy cho các thế hệ học trò, khơi gợi trong các em những khát vọng. Trong mỗi bài giảng, thầy luôn lồng ghép những chi tiết trong cuộc sống hiện thực, từ các nhân vật văn chương thầy liên hệ đến số phận những con người trong thực tế, giúp cho học trò thêm yêu cuộc sống, yêu con người và phấn đấu vượt lên số phận khó khăn để khẳng định giá trị bản thân.
Hiện nay, thầy Kha đang giữ chức vụ Bí thư Chi bộ kiêm Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc nội trú THCS Tri Tôn. Tròn 20 năm gắn bó với công tác giáo dục, các thế hệ học trò được thầy Kha dìu dắt trưởng thành không sao nhớ hết. Nhiều học trò của thầy giờ làm cán bộ huyện, xã; làm chủ các doanh nghiệp; làm kỹ sư, bác sĩ; cũng không ít người đi theo con đường Sư phạm như thầy, đang ngày ngày gieo chữ trên mảnh đất Tri Tôn cằn cỗi. Ngồi trò chuyện với thầy, chốc chốc cuộc trò chuyện lại gián đoạn vì thầy bận tiếp chuyện điện thoại. Cứ nhấc máy lên là thầy nói hai thứ tiếng Khmer và Việt đan xen. Kết thúc một cuộc điện thoại thầy lại cười tươi, bảo đó là đứa học trò cũ, nay lập nghiệp ở nơi nào đó gọi về hỏi thăm thầy, “khoe” những thành quả mà các em đạt được. Là người thầy mà được những “lứa” học trò như vậy thì còn hạnh phúc nào hơn!
Thầy Chau Mên, giáo viên dạy Tiếng Khmer tại Trường phổ thông dân tộc nội trú THPT An Giang, cũng là học trò cũ của thầy Kha cho biết: “thầy Kha là một người thầy mẫu mực, đã khơi dậy trong tôi niềm đam mê học vấn, chính thầy là tấm gương tiêu biểu để tôi quyết chí học hành, vượt khó để trở thành người giáo viên như hiện nay”. Hiện tại, không chỉ giảng dạy, thầy Chau Mên còn được thầy Kha hướng dẫn nghiên cứu soạn thảo các loại tài liệu tiếng Khmer phục vụ việc dạy học. Thầy Mên rất hào hứng với công việc này: “Tôi đổi đời là nhờ con chữ, nay phải tiếp tục gắn bó với con chữ, dùng con chữ để giúp đồng bào tôi. Thầy Kha đã “mở đường” thì nay tôi tiếp bước”.
Thầy Kha tâm sự, bữa trước, trời tối rồi mà vẫn có hai vợ chồng đạp xe cọc cạch đến nhà, tặng cho thầy một bao khoai lang tổ bố. Thầy từ chối kiểu nào cũng không được. Họ nói, nhờ thầy dạy dỗ mà con của họ nay đã là sinh viên đại học, nhà không có gì, chỉ được cái khoai lang năm nay trúng, gởi thầy chút ít ăn lấy thảo với gia đình. Nói rồi hai ông bà lại cọc cạch đạp xe về. Cái tình của người dân nơi đây là như thế đó. Sống gần gũi với dân miệt này nên thầy biết, người Khmer trên đây tuy nghèo nhưng rất trọng tri thức. Nhiều gia đình đói lên đói xuống mà vẫn cho con em đi học với mong muốn dùng cái chữ để đổi đời. Thầy mong muốn sẽ có thêm nhiều thế hệ học trò “giữ lửa” cùng thầy, để nhiều người Khmer đến với chữ nghĩa tri thức, thay đổi cuộc đời.
Một trí thức Khmer tận tụy
Vừa từ trường về nhà, thầy Kha lại ngồi ngay vào bàn làm việc, giở tài liệu sách báo tiếng Khmer và tiếng Việt ra cặm cụi nghiên cứu. Hỏi ra mới biết, thầy tham gia nhóm Biên soạn từ điển Khmer - Việt và Việt - Khmer do Trường Đại học Trà Vinh chủ trì. Đây là một công trình quan trọng nhằm trang bị tư liệu cho việc học tập, nghiên cứu chữ Khmer ở Khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Khi chúng tôi hỏi việc giảng dạy, quản lý ở trường đã chiếm nhiều thời gian, sao thầy vẫn “gánh” thêm việc nghiên cứu biên soạn từ điển chi cho cực thân. Thầy cười bảo, hiện giờ thầy dạy chủ yếu là môn Ngữ văn Khmer, không chỉ dạy ở trường thầy đang công tác mà còn đi dạy hợp đồng cho nhiều nơi, “cần đâu đánh đó”. Thầy đã từng hợp đồng dạy tiếng Khmer cho Tổng cục Hải quan An Giang; Biên phòng An Giang; Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh An Giang; Công an tỉnh Long An, Đồng Tháp, An Giang; Kiểm lâm huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, các lớp bồi dưỡng tiếng Khmer của cán bộ công chức huyện nhà... Việc nghiên cứu và viết sách tiếng Khmer giúp thầy rất nhiều trong việc giảng dạy. Bên cạnh đó, nó còn là đam mê của thầy nên vất vả chút ít thì có hề gì. Thầy còn “khoe”, thầy là tác giả Bộ sách tiếng Khmer (quyển 1) do Bộ Giáo dục và Đào tạo ấn hành; Tác giả bộ Tài liệu tiếng Khmer do Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang chủ trì biên soạn (dùng cho cán bộ, viên chức công tác tại vùng đồng bào dân tộc Khmer) và là Tác giả Tài liệu tiếng Khmer do Sở Giáo dục và Đào tạo An Giang chủ trì biên soạn (dùng cho cán bộ, viên chức trong ngành giáo dục ở An Giang)...
Khi tôi ngỏ ý chụp lại mấy Bằng khen và Kỷ niệm chương của thầy để làm tư liệu cho bài viết, thầy cười hỏi, còn một thành quả cũng rất quan trọng của tôi nè, có cần chụp không? Tôi nói chụp chứ, đương nhiên chụp rồi! Những tưởng thầy đem thêm cái Huy chương hay Bằng khen nào khác, ai ngờ thầy kêu vợ thầy ra, thầy bảo đó, một thành quả quan trọng trong cuộc đời tôi nữa đó. Tôi chưa hết ngạc nhiên thì thầy giới thiệu, người phụ nữ này là mẹ của hai đứa con tôi, cùng tôi nuôi dưỡng và dạy dỗ tụi nó nên người, giờ một đứa đang làm giáo viên dạy cấp 2, một đứa đang học đại học Nông Lâm Tp. Hồ Chí Minh. Cô này cũng là người cùng tôi vượt qua bao nhiêu sướng vui đau khổ, giúp tôi có một mái ấm hạnh phúc bền vững... Đối với tôi, đó cũng là một thành quả mỹ mãn lắm chứ! Nói xong thầy cười, cô Neang Soc Phiên vợ thầy cũng cười, bảo ông này chỉ khéo “nịnh vợ” thôi chú ơi. Cô mời tôi ở lại ăn cơm, xong rồi “nguýt yêu” thầy Kha một cái trước khi trở vô nhà trong. Tôi vừa bất ngờ vừa cảm thấy lòng ấm áp lạ thường với cái cách mà hai vợ chồng thầy bày tỏ tình cảm với nhau. Chợt nghĩ, có biết bao người vì dấn thân chăm lo cho sự nghiệp mà xao nhãng chuyện hạnh phúc gia đình. Thầy Kha đã làm tốt vai trò của một người cán bộ đối với xã hội, với nhân dân, lại chăm chút được một mái ấm như thế này quả là đáng trân trọng biết bao!
Thầy Kha bảo, những lúc rảnh rỗi thầy thường rong ruổi đạp xe ra ngoại ô thị trấn, ngắm nhìn khung cảnh rừng núi quê hương thay đổi từng ngày. Đi đâu, thầy cũng không quên mang theo máy ảnh. Khi thấy nhành cây, ngọn cỏ, chim chóc hay một địa danh, một di tích nào đó là lạ, thầy liền đem máy ảnh ra chụp lại. Chụp không chỉ để ngắm nhìn mà thầy còn nghiên cứu tên gọi tiếng Việt và tiếng Khmer của sự vật, để rồi giới thiệu cho học trò và mọi người cùng biết, cho những ai đam mê tìm hiểu. Đó không đơn thuần là sở thích, mà còn là hành động thể hiện trách nhiệm với quê hương, mong muốn các thế hệ sau lưu giữ.
Khi chúng tôi hỏi, những gì khiến thầy trăn trở nhất hiện nay, thầy Kha đăm chiêu không trả lời, mắt thầy vời vợi như bóng núi. Rồi thầy dẫn chúng tôi đi vào một sóc người Khmer ở Châu Lăng. Nơi ấy, mặc dù đời sống đã cải thiện ít nhiều nhưng người dân nhìn chung vẫn nghèo khó, những phận người vẫn đang lầm lũi mưu sinh. Thầy Kha và tôi đi quanh phum sóc, chốc chốc thầy đứng lại chào hỏi và trò chuyện với một người dân. Đi hết một vòng, thầy bảo, đó là trăn trở lớn nhất của thầy. Trăn trở vì đời sống người dân đồng bào Khmer còn nhiều khó khăn, thậm chí nhiều hộ đói nghèo, mặc dù người dân nơi đây luôn chí thú làm ăn, cần cù chịu khó. Mắt thầy buồn rười rượi, thầy nói như nói với chính mình: “Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến công tác dân tộc, Người nhất quán hai điều quan trọng nhất là đoàn kết các dân tộc và nâng cao đời sống của đồng bào. Nay, vấn đề đoàn kết dân tộc ta làm khá tốt rồi, nhưng việc nâng cao đời sống đồng bào theo di nguyện của Bác thì vẫn còn chưa triệt để, mặc dù Đảng và Nhà nước ta luôn dành những ưu đãi cho đồng bào dân tộc. Tôi nghĩ, có lẽ đã đến lúc ta nghĩ đến chuyện cho nhân dân cần câu, thay vì cho họ con cá!”
Có lẽ, chỉ những trí thức Khmer đầy tâm huyết, nặng lòng với đồng bào dân tộc thì mới có những trăn trở đầy trách nhiệm, đáng quý như thầy!
Thầy Chau Mô Ni Sóc Kha (phải) chụp ảnh lưu niệm với học trò
dưới chân đồi Tà Pạ - Tri Tôn
Tạm biệt thầy Kha cũng bằng một cái bắt tay thật chặt, tôi trở về Long Xuyên. Trên đường về, thỉnh thoảng tôi bắt gặp bóng dáng những người nông dân Khmer đang cặm cụi bám đồng khi trời sừng sững nắng. Miệt này mùa nắng, giọt mồ hôi nào rơi xuống lập tức thấm vào đất mất tiêu. Vậy mà họ vẫn miệt mài, bền bỉ, đổi lấy giọt mồ hôi cho khoai cho lúa lên tươi. Và tôi cũng bắt gặp, xa xa trên những con đường dẫn vào phum sóc, mấy đứa trẻ Khmer ôm tập sách trở về nhà sau khi đến trường tìm chữ. Chợt nghĩ, biết đâu chừng mấy cô cậu này mai đây trở thành các bác sĩ, kỹ sư hay những trí thức Khmer trong thời đại mới, làm giàu đẹp thêm cho quê hương cỗi cằn nắng gió?! Biết đâu chừng!...
Trương Chí Hùng
Theo website Đại học An Giang
Đỗ Thị Khánh Vân (st)