Tại Kỳ họp thứ 3, Khóa XIV, công tác xây dựng pháp luật tiếp tục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xác định là một nội dung trọng tâm của kỳ họp. Quốc hội đã dành phần lớn thời gian để xem xét, thông qua 12 luật. Để thực hiện quy định của Luật phổ biến, giáo dục pháp luật; bảo đảm quyền được thông tin về pháp luật của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động; góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, Ban Biên tập Trang tin điện tử của Ban Quản lý Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu một số điểm chính của 12 luật vừa được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 3, Khóa XIV.
Quốc hội biểu quyết thông qua Nghị quyết về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2018. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN)
- Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14, thông qua vào ngày 12/6/2017 và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018
Luật này quy định về nguyên tắc, nội dung, nguồn lực hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV).
Đối tượng áp dụng gồm: Doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và hoạt động theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, đáp ứng các tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa theo quy định của Luật này; cơ quan, tổ chức và cá nhân liên quan đến hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Luật được thiết kế theo hướng các hỗ trợ trọng tâm chỉ tập trung cho 3 đối tượng doanh nghiệp, gồm DNNVV được thành lập trên cơ sở chuyển đổi từ hộ kinh doanh, DNNVV khởi nghiệp sáng tạo và DNNVV tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị.
- Luật Quản lý ngoại thương số 05/2017/QH14 ngày 12/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018
Luật Quản lý ngoại thương được Quốc hội thông qua có 8 chương 113 điều với phạm vi điều chỉnh quy định về biện pháp quản lý ngoại thương, phát triển hoạt động ngoại thương; giải quyết tranh chấp về áp dụng biện pháp quản lý ngoại thương.
Luật quy định rõ về nguyên tắc quản lý nhà nước về ngoại thương là: Nhà nước quản lý ngoại thương theo quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Bảo đảm minh bạch, công khai, bình đẳng, đơn giản hóa thủ tục hành chính; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, thương nhân thuộc các thành phần kinh tế; thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước và xuất khẩu, gắn với quản lý nhập khẩu. Bảo đảm thực hiện đầy đủ các nguyên tắc đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong hoạt động ngoại thương theo pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Luật Đường sắt (sửa đổi) số 06/2017/QH14 ngày 16/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2018.
Luật Đường sắt (sửa đổi) quy định về quy hoạch, đầu tư, xây dựng, bảo vệ, quản lý, bảo trì và phát triển kết cấu hạ tầng đường sắt; công nghiệp đường sắt, phương tiện giao thông đường sắt; tín hiệu, quy tắc giao thông và bảo đảm trật tự, an toàn giao thông đường sắt; kinh doanh đường sắt; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động đường sắt; quản lý nhà nước trong hoạt động đường sắt.
Đáng chú ý, Luật đường sắt (sửa đổi) có chương riêng (Chương XIII) về đường sắt tốc độ cao, trong đó nêu rõ "Nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư xây dựng, tổ chức quản lý, bảo trì và khai thác, kinh doanh đường sắt tốc độ cao". Đây được coi là bước chuẩn bị, tạo hành lang pháp lý quan trọng làm cơ sở để tạo thuận lợi cho quá trình đầu tư, quản lý, khai thác sau này.
- Luật Chuyển giao công nghệ (sửa đổi) số 07/2017/QH14 ngày 19/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2018.
Luật Chuyển giao công nghệ sửa đổi gồm 6 chương, 60 điều. Luật này quy định về hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam, từ nước ngoài vào Việt Nam, từ Việt Nam ra nước ngoài; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động chuyển giao công nghệ; thẩm định công nghệ dự án đầu tư; hợp đồng chuyển giao công nghệ; biện pháp khuyến khích chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường khoa học và công nghệ; quản lý nhà nước về chuyển giao công nghệ.
- Luật Thủy lợi số 08/2017/QH14 ngày 19/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/7/2018.
Luật Thủy lợi gồm 10 chương, 60 Điều, quy định về điều tra cơ bản, chiến lược, quy hoạch thủy lợi; đầu tư xây dựng công trình thủy lợi; quản lý, khai thác công trình thủy lợi và vận hành hồ chứa thủy điện phục vụ thủy lợi; dịch vụ thủy lợi; bảo vệ và bảo đảm an toàn công trình thủy lợi; thủy lợi nhỏ, thủy lợi nội đồng; quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong hoạt động thủy lợi; trách nhiệm quản lý nhà nước về thủy lợi.
- Luật Du lịch số 09/2017/QH14 ngày 19/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018.
Luật quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có quy định nghiêm cấm làm phương hại đến chủ quyền, lợi ích quốc gia, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống văn hóa, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc; lợi dụng hoạt động du lịch để đưa người ra nước ngoài hoặc vào Việt Nam trái pháp luật; xâm hại tài nguyên du lịch, môi trường du lịch; phân biệt đối xử với khách du lịch, thu lợi bất hợp pháp từ khách du lịch, tranh giành khách, nài ép khách mua hàng hóa, dịch vụ; kinh doanh trong lĩnh vực du lịch khi chưa đủ điều kiện, không có giấy phép kinh doanh hoặc không duy trì điều kiện kinh doanh trong quá trình hoạt động theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp khác hoặc cho tổ chức, cá nhân khác sử dụng giấy phép kinh doanh dịch vụ lữ hành của doanh nghiệp để hoạt động kinh doanh; hành nghề hướng dẫn du lịch khi không đủ điều kiện hành nghề; quảng cáo không đúng loại, hạng cơ sở lưu trú du lịch đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận; quảng cáo về loại, hạng cơ sở lưu trú du lịch khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận…
- Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi), số 10/2017/QH14 ngày 20/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước sửa đổi có 9 chương 78 điều, quy định trách nhiệm bồi thường của Nhà nước đối với cá nhân, tổ chức bị thiệt hại do người thi hành công vụ gây ra trong hoạt động quản lý hành chính, tố tụng và thi hành án; thiệt hại được bồi thường; quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức bị thiệt hại; cơ quan giải quyết bồi thường; thủ tục giải quyết yêu cầu bồi thường; phục hồi danh dự; kinh phí bồi thường; trách nhiệm hoàn trả; trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong công tác bồi thường nhà nước.
- Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) số 11/2017/QH14 ngày 20/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018.
Luật Trợ giúp pháp lý (sửa đổi) gồm 8 Chương, 48 Điều quy định về người được trợ giúp pháp lý; tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý; người thực hiện trợ giúp pháp lý; hoạt động trợ giúp pháp lý; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động trợ giúp pháp lý.
Luật xác định rõ, trợ giúp pháp lý là việc cung cấp dịch vụ pháp lý miễn phí cho người được trợ giúp pháp lý trong các vụ việc trợ giúp pháp lý theo quy định của Luật này, góp phần bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tiếp cận công lý và bình đẳng trước pháp luật.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự số 100/2015/QH13, số 12/2017/QH14 ngày 20/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018.
Với tỷ lệ hơn 88% đại biểu có mặt tán thành, chiều 20/6 Quốc hội đã biểu quyết thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Hình sự 2015.
Về phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; tội hiếp dâm và tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, Luật quy định: Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về loại tội rất nghiêm trọng và tội đặc biệt nghiêm trọng.
Luật cũng bổ sung quy định mới về tội vi phạm quy định về kinh doanh theo phương thức đa cấp; bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại về Tội tài trợ khủng bố và tội rửa tiền.
- Luật Cảnh vệ số 13/2017/QH14 ngày 20/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Luật quy định rõ những hành vi bị nghiêm cấm, trong đó có quy định nghiêm cấm sử dụng vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc sinh học, chất độc hóa học và chất phóng xạ, công cụ hỗ trợ hoặc yếu tố khác gây nguy hiểm, đe dọa xâm hại đến sự an toàn của đối tượng cảnh vệ; chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng Cảnh vệ và cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia, phối hợp thực hiện công tác cảnh vệ; tụ tập đông người trái pháp luật gây mất an ninh, trật tự tại khu vực, mục tiêu cảnh vệ; làm lộ thông tin bí mật liên quan đến đối tượng cảnh vệ, công tác cảnh vệ; làm giả, mua bán, sử dụng trái phép các loại giấy tờ, tài liệu liên quan đến công tác cảnh vệ; lợi dụng nhiệm vụ, quyền hạn của lực lượng Cảnh vệ hoặc lợi dụng việc tham gia, phối hợp thực hiện công tác cảnh vệ để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; phân biệt đối xử về giới trong công tác cảnh vệ…
- Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ số 14/2017/QH14 ngày 20/6/2017 và bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/07/2018.
Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ gồm 8 chương 76 điều, quy định về quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ; nguyên tắc, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền con người, quyền công dân và phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Nguyên tắc quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trang bị vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ phải đúng thẩm quyền, đối tượng và bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật; người quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đầy đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định; người ra mệnh lệnh hoặc quyết định sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải chịu trách nhiệm về mệnh lệnh, quyết định của mình. Việc sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ phải bảo đảm đúng mục đích, đúng quy định, hạn chế thiệt hại đối với người, tài sản và môi trường.
- Luật Quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước số 15/2017/QH14 ngày 21/6/2017, bắt đầu có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018.
Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước (sửa đổi) gồm 10 chương, 134 điều, quy định về: Quản lý nhà nước đối với tài sản công; Chế độ quản lý, sử dụng tài sản công; quyền và nghĩa vụ của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân trong việc quản lý, sử dụng tài sản công. Đối với tài sản công là tiền thuộc ngân sách nhà nước, các quỹ tài chính nhà nước ngoài ngân sách, dự trữ ngoại hối nhà nước được quản lý, sử dụng theo quy định của pháp luật có liên quan.
Còn nữa
Thu Hiền (tổng hợp)