Ngồi hội đàm với chúng tôi tại Bách Sắc vào một ngày của tháng 4-1945 là những cán bộ của Việt Cách, nhưng không thấy những nhân vật chủ chốt như Nguyễn Hải Thần, Vũ Hồng Khanh, Trương Bội Công, mà chỉ thấy nhiều người quen biết như các anh Lê Tùng Sơn, Bồ Xuân Luật... Thay mặt đoàn đại biểu Việt Minh, tôi phát biểu phân tích cặn kẽ cho những người Việt Nam trong tổ chức Việt Cách biết tình hình trong nước và phương hướng tiến lên của cách mạng Việt Nam. Tôi kêu gọi anh em hãy hướng về đất nước, cùng đồng bào nếm mật, nằm gai, chia cơm, sẻ áo, đấu tranh giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Phía Việt Cách nói những câu cách mạng suông. Mà cũng có gì để nói đâu, vì họ ở trong nước đâu mà biết được tình hình. Đang họp, bỗng có một ông cụ mặt gầy, để râu, vầng trán cao, đôi mắt sáng, đội mũ cát két, mặc bộ đồ xanh nhạt, chân đi giày vải, bước vào. Thoáng nhìn, tôi giật mình, toan đứng dậy, định kêu tiếng ''Bác'', thì cụ nhanh trí hơn, giơ tay ra hiệu cho tôi đừng nói. Tôi hiểu ý, ngồi yên, vờ như không quen biết gì cụ. Tôi đoán được ý Bác căn dặn tôi ở cái nơi mật vụ như ruồi, phải cẩn thận, bằng không sẽ lụy đến thân. Tuy vậy, trong lòng tôi trào lên niềm vui sướng vô hạn, vì được tận mắt nhìn thấy Bác khoẻ mạnh, an toàn. Tôi ước gì có được đôi cánh bay ngay về Việt Nam, báo cho các anh trong Thường vụ Trung ương và toàn thể đồng bào biết, Bác của chúng ta đang còn sống. Anh em trong Đoàn, ngoài tôi ra, chưa anh nào được gặp Bác. Lần đầu tiên trông thấy Bác, có thể các anh chưa biết đó là ai. Riêng có anh Châu, sau đó, nói với tôi rằng, khi nhìn ông cụ, linh tính làm anh liên tưởng đến đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Còn anh Biểu vô tình ghé vào tai tôi nói: ''Trông Ông Cụ vừa vào giống sĩ phu Việt Nam quá''. Tôi gật đầu mỉm cười. Bác đi phía sau dãy ghế ngồi của bên anh em đại biểu Việt Cách, để nhìn sang dãy ghế của bên chúng tôi. Chắc Bác muốn “điểm mặt” số thành viên của Đoàn. Nhìn chúng tôi một lượt, Bác tự kéo ghế ngồi, bảo chúng tôi tiếp tục khai hội. Ngồi một lúc, Bác đứng dậy, xin phép Hội nghị, có việc phải đi. Trước khi đi, Bác nói: ''Các đồng chí khai hội như vậy là tốt, tỏ rõ mối thiện chí giữa hai bên''. Bác đến rồi Bác đi, tất cả chỉ diễn ra chừng 30 phút. Thời gian ngắn ngủi đó, tôi đã ''liếc trộm'' Bác mấy lần. Bác ngồi gần tôi, vậy mà khoảng cách lại xa muôn dặm. Người xưa nói: “Nhìn nhau mà biển trời cách mặt”, thật đúng với hoàn cảnh của tôi trong lúc này. Nhớ lại khi Bác bị chính quyền địa phương của Tưởng Giới Thạch bắt giam, chúng tôi có biết tin. Nhưng từ khi Bác được ra tù, chúng tôi lại không nhận được tin tức.
Đến chiều, khi chúng tôi đang ngồi ăn cơm trong nhà trụ sở của Việt Cách, Bác lại đến thăm chúng tôi. Rất tự nhiên, Bác ngồi cạnh chúng tôi và nói vui: ''Còn cơm cho tôi ăn cùng''. Lúc này, tôi mới có dịp được nhìn kỹ gương mặt phong sương của Bác. So với hồi năm 1941, tôi được gặp nay thấy Bác già và gầy đi nhiều. Riêng có đôi mắt của Bác vẫn sáng. Bác nhìn tôi rất thiện cảm, y hệt cái nhìn của Bác đối với tôi hồi ở Pác Bó. Bác nheo mắt lại, có ý dặn dò tôi phải giữ kín việc đã quen nhau. Trong lúc đang nói chuyện, bỗng có một người phụ nữ từ ngoài đi vào. Sau đó, tôi biết tên chị là Bích Vân. Chị chào chúng tôi, chúng tôi chào lại. Trong Đoàn có anh cứ nhìn như dán mắt vào chị, Bác thấy vậy, nhắc khéo: ''Kính nhi viễn chi'' (hãy đứng xa mà nhìn). Có lẽ ý Bác muốn nhắc chúng tôi không nên nhìn phụ nữ một cách chằm chằm như vậy. Hay là muốn nhắn nhủ chúng tôi phải cẩn thận trong mối quan hệ.
Vào lúc 10 giờ đêm hôm ấy, anh Lê Tùng Sơn đến bảo tôi: ''Anh ra ngoài có người cần gặp''. Anh Sơn dẫn tôi ra phía sau nhà, nơi kín đáo, vắng vẻ. Đến nơi, tôi đã thấy Bác đứng đó. Lúc này thì không thể ghìm nổi tình cảm của mình, tôi đã ôm chầm lấy Bác. Tôi áp đầu vào ngực Bác như muốn lấy hơi thở ấm áp, nồng nàn từ trái tim người cha. Bác nhìn tôi trong đêm và hỏi: ''Các chú sang đây làm gì?''. Tôi báo cáo với Bác là theo lời mời của Trương Phát Khuê, Thường vụ Trung ương có họp nghiên cứu tình hình thấy rằng cũng cần tranh thủ lực lượng ngoài nước, xem nội tình của Việt Cách ra sao và nếu điều kiện cho phép, có thể bàn bạc với đại diện Tưởng Giới Thạch, tranh thủ Đồng Minh bàn việc liên kết chống Nhật. Bác bảo: ''Không thể trông cậy gì ở họ. Họ nói giúp chúng ta, nhưng thực chất lại muốn nuốt chúng ta. Trong nước đang có biến động. Tình hình thế giới cũng đang diễn biến. Quân đội Liên Xô đang thắng lớn. Ngoài việc giải phóng lãnh thổ của mình, còn đem quân giúp cho Ba Lan, Lỗ, Bảo, Tiệp Khắc, Hung, giúp Nam Tư, Na Uy, Hy Lạp giải phóng và đang ào ạt tiến vào Béclin. Chiến tranh sắp kết thúc. Nhật sẽ bị thất bại. Nhân cơ hội này, chúng ta sẽ nổi dậy giành chính quyền. Vì vậy, các chú liệu thu xếp công việc để về cho nhanh, sớm ngày nào hay ngày ấy. Nhưng phải bí mật, cẩn thận, cảnh giác, vì chúng ta đang ở trước miệng hùm đấy''. Tôi hỏi Bác: ''Đối sách của ta với Tưởng, Trương và tổ chức Việt Cách thì thế nào?''. Bác cho biết: ''Đối với Tưởng, Trương, trước sau họ cũng mang quân sang nước ta, tiếng là để tiếp nhận sự đầu hàng của Nhật khi Nhật thua, nhưng kỳ thực là xâm lược và vơ vét. Chúng ta không hy vọng gì ở họ đâu. Tuy vậy, cũng cần tranh thủ họ cho tới khi không thể tranh thủ được. Riêng đối với bà con ta trong tổ chức Việt Cách, cần nói rõ để bà con biết, phải cảnh giác, đoàn kết, chọn những ai có lòng yêu nước nồng nàn, thu nạp họ vào Việt Minh và tạo đều kiện giúp họ trở về nước góp phần cùng nhân dân làm cuộc giải phóng. Nghe mấy lời dặn dò của Bác sao mà thấm thía vậy. Thực chất đây là ý kiến chỉ đạo hết sức quý báu đối với chúng tôi. Tôi báo cáo với Bác một vài nét sơ bộ về tình hình trong nước, nói rằng, các đồng chí trong Đảng mong Bác lắm. Anh Trường Chinh, anh Nguyễn Lương Bằng nhắc đến Bác luôn. Cách mạng Việt Nam lúc này phải có tay lái vững, tay lái đó chính là Bác. Bác nghe tôi nói, cười nhỏ, bảo tôi rằng thắng lợi của cách mạng phụ thuộc vào lực lượng của nhân dân, sức mạnh của nhân dân. Cá nhân sẽ không làm nên chuyện gì nếu không có nhân dân. Tôi muốn giữ Bác lại càng lâu càng tốt, nên cố nghĩ nhiều chuyện để hỏi Bác, nhất là chuyện trong những ngày Bác bị giam cầm ở nhà lao Tưởng Giới Thạch. Trong những ngày này, các anh trong Trung ương rất lo. Bác gạt đi và nói lúc này chưa phải lúc kể chuyện đó. Bác chia tay tôi, rồi mất hút trong đêm tối. Còn tôi, đứng lại một mình. Về nhà. Nằm xuống giường, tôi cứ ngờ mình đang trong mơ được gặp Bác.
Hôm sau, tôi cố dò tìm xem Bác ở đâu để gặp lần nữa. Nhưng hỏi anh Sơn, anh không biết, hỏi anh Luật, anh cũng chẳng hay. Bác có tài ẩn hiện như ''thần'', khó lòng biết được. Trong công tác bí mật, Bác rất nguyên tắc, rất kín, cho nên kẻ địch rất khó tìm thấy ở Bác những sơ hở, dù chỉ là nhỏ nhất. Những ngày ở Bách Sắc, Bác dặn anh em phải hết sức giữ bí mật, không ai được ra phố, tất cả đều phải giấu mình và ngụy trang cho khéo. Sau này, tôi được các anh đi cùng Bác sang Bách Sắc cho biết, những ngày ở Bách Sắc, Bác gặp tướng Trương Phát Khuê, tranh thủ và nói với ông ta rằng, phong trào cách mạng ở Việt Nam đang lên, cần có cán bộ người Việt Nam. Bác đề nghị ông ta cho một số người Việt Nam làm công việc chuyên môn hiện đang công tác dưới quyền ông ta, về nước hoạt động. Bác viết danh sách những người Bác cần, đưa cho Khuê. Vì vậy, các anh Đức, Quý... rất giỏi vô tuyến điện đã được về nước vào dịp này.
Sau lần gặp chúng tôi, Bác khẩn trương thu xếp công việc để về nước. Anh Đinh Đại Toàn kể lại rằng, một đêm ở Bách Sắc, anh thấy Bác làm việc bí mật, thu xếp công việc đến tận khuya. Sáng hôm sau, Bác gặp các anh nói rõ là đi bộ về nước, Anh Toàn hỏi Bác cách giải quyết số vũ khí hiện có trong tay. Bác bảo tất cả cho vào hòm đóng lại, sẽ có người chuyển về sau. Khi Bác lên đường trở về nước, có người Mỹ phụ trách vô tuyến điện nói xin cùng đi theo, các anh hỏi Bác, Bác nói cứ để họ đi. Bác rời Bách Sắc vào một ngày giữa tháng 4-1945. Từ Bách Sắc, Bác và các anh đi bộ về Pác Bó. Vừa đi vừa nghỉ mất sáu ngày. Khi đi, các anh vẫn mang theo ''thịt hộp Việt Minh'', nhưng không ai đụng đến, vì đã có dăm bông và thịt ruốc của chị Hoa, vợ anh Phương, gửi cho. Khi đi đến Cột Mà, Bác báo tin cho Đảng bộ Cao Bằng và những người quen biết. Anh Hoàng Sâm cùng gia đình anh Dương Đại Lâm nhận được tin đã ra tận cột mốc biên giới đón Bác và những người cùng đi. Từ đấy, đoàn chia làm hai tốp theo Bác về Pác Bó trước. Còn hai người Mỹ, anh Lâm thu xếp cho họ đi tốp sau. Tới Pác Bó, Bác ở nhà anh Lâm vài hôm rồi ra ở lán Khuổi Nậm.
Lại nói về Đoàn chúng tôi. Sau khi được Bác bảo phải khẩn trương thu xếp công việc để về nước, chúng tôi họp bàn kế hoạch chuẩn bị lên đường. Sau khi bàn bạc nhất trí trong Đoàn, tôi viết giấy gửi Trương Phát Khuê, đề nghị cho Đoàn về nước. Chờ mất vài ngày vẫn chưa thấy hồi âm. Sợ phía đối phương gây khó dễ, chúng tôi bàn bạc nhất trí viết thư gửi Bác, nhờ Bác can thiệp với Trương Phát Khuê, vì Khuê rất kính nể Bác. Anh em đều nói cứ hỏi anh Lê Tùng Sơn xem sao. Khi hỏi anh Sơn, anh nhận lời chuyển thư của chúng tôi lên Bác. Anh nói nhỏ với tôi, Bác đã về nước. Nhưng vẫn chuyển được thư tới Bác qua trạm giao thông đặc biệt. Ít ngày sau Bác gửi thư sang cho Khuê, nói rằng đoàn đại biểu Việt Minh ở Trung Quốc đã lâu ngày, đề nghị Khuê giúp cho anh em về nước. Nhận thư Bác, Khuê không thể chần chừ, ra lệnh cho Tiêu Văn bố trí cho chúng tôi lên đường.
Trước lúc lên đường, Trương Phát Khuê mở tiệc chiêu đãi chúng tôi. Tiệc được dọn ra ở sân lớn. Một con bò thui treo giữa sân, bên cạnh là vò rượu lớn. Mọi người lần lượt đến xẻo từng miếng thị bò, rồi thò bát vào vò múc rượu ra uống. Lối ăn uống ''rừng rú'' này làm nhiều người thích thú. Nhưng chúng tôi thì không quen. Dự tiệc chiêu đãi, về phía đối phương, ngoài Trương Phát Khuê, còn có Tiêu Văn; tướng Trần Bảo Sơn, thống lĩnh miền biên giới Trung - Việt, khu vực giáp tỉnh Cao Bằng, cùng nhiều tướng tá khác. Trương Phát Khuê trịnh trọng đọc diễn văn, chúc chúng tôi thượng lộ bình an, và hứa hẹn thế nào Trung Quốc cũng sẽ giúp Việt Nam, Khuê nâng cốc chúc mừng.
Trong cơn chếnh choáng, Khuê cao hứng nói: ''Hôm nay, nhân tiện có các vị khách quý Việt Nam, tôi xin tâm sự với các vị rằng, nếu tôi theo cộng sản, tôi sẽ trở thành ông Chu Đức (ý nói sẽ trở thành Tổng Tư lệnh quân đội cộng sản). Nếu tôi theo Tưởng Giới Thạch, tôi sẽ trở thành Hà Ứng Khâm. Nhưng, (Khuê nhấn mạnh chữ ''nhưng'') tôi không theo ai. Trước sau, tôi chỉ là tướng Trương Phát Khuê''. Rõ ràng khẩu khí anh hùng hảo hán. Suốt bữa tiệc, Khuê say khướt, nằm ngửa cổ trên thành ghế. Bọn thuộc tướng đến chúc rượu, Khuê há mồm ra để cho chúng đổ vào. Khuê nói: ''Chúng mày làm tao say chết vì rượu bây giờ''. Các thuộc tướng nghe nói vậy không dám đổ rượu vào mồm Khuê nữa. Lúc tiệc gần tan, Khuê đứng dậy, đi quanh khắp lượt, hỏi han từng người, làm trò mị dân. Đi đến cuối bàn, Khuê nhìn thấy một viên cấp tá đang tranh thủ ngồi đọc sách. Khuê liền cầm quyển sách lên xem. Nhìn tờ bìa sách, Khuê nói: ''Đọc sách gì thì đọc, kể cả sách cộng sản cũng được. Nhưng khi ta bảo đánh là phải đánh, nghe không''.
Tiệc tan. Những tướng lĩnh Quốc dân đảng say khướt. Bọn hầu vệ phải dìu họ vào phòng. Còn chúng tôi không ai biết uống rượu, nên rất tỉnh.
Trước khi rời Bách Sắc, chúng tôi muốn dạo chơi phố lần cuối. Hồ Đức Thành, một người Việt Nam ở Bách Sắc dẫn chúng tôi đi. Tới chỗ bờ sông, thấy thuyền đậu san sát, tôi hỏi thuyền chở gì? Thành nói: ''Chở gì đâu, nhà chứa trên sông đấy. Bọn này chuyên phục vụ lính Tưởng''. Nghe nói vậy, tôi càng có cơ sở để nhìn nhận bản chất quân Tàu ô, mà sau đó, khi sang Việt Nam, chúng cũng làm trò này. Những tên lính Tưởng thất thểu bước trên đường phố, trong khi đó, những tên lính Mỹ lại ăn mặc quá sang. Trên túi áo của lính Mỹ căng phồng những tiền. Đồng tiền của lính Mỹ đã lôi cuốn các cô gái Trung Hoa. Họ vây quanh lính Mỹ, cợt nhả, trêu đùa đến sỗ sàng.
Vào một ngày gần cuối tháng 4-1945, chúng tôi lên đường về nước. Buổi sáng hôm ấy, tại trụ sở Việt Cách, Tiêu Văn thay mặt Trương Phát Khuê, tổ chức lễ xuất phát. Lúc này, tôi mới thấy phơi bày cái gọi là ''đại kế hoạch'' của Quốc dân đảng. Đó là việc vận chuyển 600 khẩu súng mà Trương Phát Khuê hứa giúp chúng tôi, đem trang bị cho ''Uỷ ban hành động của Việt Nam cách mạng Đồng Minh Hội'', gồm mấy trăm bộ đội thuộc Việt Nam phục quốc quân chạy sang Trung Quốc lúc Pháp đàn áp. Số quân này chia làm bốn toán. Số súng chia đều cho mỗi toán. Người chỉ huy các toán quân là Lê Tùng Sơn, Vũ Kim Thành, Trương Trung Phụng, Bồ Xuân Luật. Như vậy, họ đã bố trí cho phái đoàn chúng tôi đi cùng với những toán quân này. Đau xót, tôi bực lắm, đã toan phản đối. Nhưng khi trao đổi với anh em trong đoàn, ai cũng khuyên tôi cố chịu đựng, miễn là được trở về Tổ quốc cùng đồng bào chiến đấu.
Lễ tiễn bắt đầu. Tiêu Văn đọc diễn văn. Ông ta hùng hổ nói: ''Hôm nay chúng ta làm lễ xuất phát tiến quân vào Việt Nam. Có sự giúp đỡ của chúng ta, nước Việt Nam sẽ được giải phóng và nhất định được giải phóng''. Nghe giọng kẻ cả, thực chất là che lấp sự ăn cướp, tôi tức lộn ruột, mắt đỏ lên, trong người nóng rần rật. Một tên cướp ngày lại nói chuyện giải phóng Việt Nam, rõ nực cười. Anh Hiền đứng cạnh tôi, nói: ''Bọn này về nước chắc dân mình sẽ khổ đây''. Anh Châu, anh Biểu, anh Bỉnh có lẽ cũng nghĩ vậy. Riêng tôi hiểu rằng, trong số những người chỉ huy của đội quân này, có một số người như anh Lê Tùng Sơn... là người của ta được Bác giác ngộ, chắc chắn các anh ấy sẽ liên hệ và báo cáo với Bác.
Rời Bách Sắc, chúng tôi đi Thiên Bảo. Từ Thiên Bảo, chúng tôi về Tĩnh Tây, rồi đến Cột Mà, biên giới Việt - Trung. Tiêu Văn đi cùng với quân Việt Cách tới Tĩnh Tây. Đến Tĩnh Tây, Văn trao giấy thông hành cho chúng tôi để đi tiếp về nước. Tới đây, chúng tôi tách khỏi quân Việt Cách. Còn quân Việt Cách lúc đó lấy danh nghĩa là ''Lữ đoàn hành động'' vượt biên giới về Việt Nam theo bốn hướng chia làm bốn cánh quân. Trong bốn cánh quân này, ngoài cánh quân của Lê Tùng Sơn, người của ta, hai cánh quân khác do Bồ Xuân Luật và Trương Trung Phụng chỉ huy, giác ngộ theo ta. Chỉ có một cánh quân của Vũ Kim Thành đi về vùng Hải Ninh, biến thành thổ phỉ, bị ta đánh cho tơi tả. Bọn sống sót, chạy thục mạng về Trung Quốc. Theo kế hoạch chung của Đồng Minh, khi ''Hoa quân nhập Việt'', thì lực lượng Anh, Mỹ cũng sẽ từ Philíppin vượt biển Đông đổ bộ lên bán đảo Đông Dương, phối hợp cùng quân Quốc dân đảng Trung Hoa từ Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam đánh sang.
Qua Cột Mà, trời tối sầm, Tỉnh uỷ Cao Bằng bố trí cho anh em tự vệ đốt đuốc dẫn đường cho chúng tôi đi. Nhìn đội quân tự vệ với những bó đuốc sáng rừng, tôi thấy cách mạng đã lớn mạnh. Khi đi bí mật, lúc về tự do. Đi miết tới khuya, anh em tự vệ đưa chúng tôi đến Lam Sơn. Vào trong căn nhà sàn, tôi thấy Bác đang ngồi đó. Tôi thốt lên: “Bác! Bác!''. Anh em trong Đoàn cũng gọi Bác như thế. Bác đứng dậy bắt tay từng người, hỏi thăm sức khoẻ khi đi đường. Nhìn tôi, Bác hỏi: ''Vất vả gian lao làm cho ''Ông hoàng nước Việt'' trẻ khoẻ hẳn ra''. Mọi người cười rất vui. Tôi nói: ''Thưa Bác, có đi, chúng tôi mới thấy được phần nào cảnh gian nan vất vả của Bác trong những ngày Bác đi bộ sang Trung Quốc, cũng như những ngày Bác bị giam ở Quảng Tây''. Bác nói: ''Đây chưa phải lúc chúng ta bàn chuyện đó. Bây giờ chú Việt và các anh em trong đoàn nói cho tôi biết kết quả chuyến đi''. Tôi báo cáo với Bác việc Trương Phát Khuê hứa cho ta 600 cây súng, nhưng đó chỉ là lời hứa suông. Bác nói: ''Các chú nên nhớ rằng, Tưởng Giới Thạch có bao giờ giúp cộng sản đâu''. Các anh trong Đoàn đều báo cáo với Bác, mỗi người một ý, chắp lại thành bản thu hoạch dài về kết quả chuyến đi, chủ yếu đã vận động, giác ngộ được một số bà con Việt kiều trở về giúp nước. Bác tỏ ý vui lòng khi thấy chúng tôi đoàn kết chặt chẽ, tôn trọng lẫn nhau, đã không xảy ra điều gì đáng tiếc. Bác mời chúng tôi ở lại ăn cơm cùng Bác. Bữa cơm đạm bạc, nhưng vui vẻ làm sao. Trong lúc ăn cơm, chúng tôi kể cho Bác nghe về những viên tướng miền biên giới Việt Nam - Trung Quốc. Khi nhắc đến Trương Phát Khuê, Bác lấy ra chiếc ảnh của Khuê tặng Bác để chúng tôi xem. Tôi thấy mặt sau ảnh có dòng chữ đề tặng của Khuê: ''Kính tặng Hồ tiên sinh''.
Trong những ngày cuối tháng 4-1945, Bác cùng Đoàn chúng tôi và có thêm các anh: Tống (Phạm Văn Đồng), Vũ Anh, Đặng Văn Cáp, Lã Minh Giang, Bình Dương (Khoa)... lúc ấy đang ở Cao Bằng, thường đến một ngôi nhà vắng chủ rộng rãi ở kề chân núi đá họp bàn triển khai công tác sắp tới, chủ yếu là kế hoạch chuẩn bị khởi nghĩa. Cũng có hôm họp ngay trên những mỏm đá ở đầu nguồn Pác ngườm. Ở Lam Sơn có một cái động lớn. Trong động có nhiều nhũ đá rủ xuống với những hình thù lạ mắt, vừa cuốn hút. Bên cạnh phía dưới lại có nhiều dòng nhỏ. Nước trong động chảy đều đều xuống khoảng trũng, trong vắt và lạnh. Mùa hè, những đêm trăng sáng ra đây chơi và tắm thì không gì sướng bằng. Bác vốn là người rất yêu thiên nhiên, thấy nơi đây phong cảnh hữu tình, thường cùng chúng tôi ra động ngồi chơi. Một lần, tắm xong, mọi người ngồi quây quần bên Bác trên một phiến đá phẳng. Trong lúc trò chuyện, Bác ra vế đối và nói đùa: ''Ai đối được, Bác gả con gái cho''. Rồi Bác thong thả đọc:
“Nguyệt chiếu khe tâm, tâm chiếu nguyệt” (Có nghĩa: Mặt trăng soi xuống lòng khe, lòng soi lên trăng).
Nhiều đồng chí xin đối. Có đồng chí đối thế nào lại hoá ra ''mặt rỗ'' (''hoa sinh thạch diện, diện sinh hoa'' nghĩa là: ''Hoa nở trên mặt đá, mặt nở hoa''), Bác cười, lắc đầu. Cho tới bây giờ, tôi vẫn chưa thấy ai đối được câu đối của Bác.
Một hôm, ở trong lán, tôi thấy anh Bỉnh ngồi viết. Chợt Bác vào, Bác hỏi:
- Chú viết gì?
Anh Bỉnh đáp:
- Thưa Bác, cháu đang làm thơ, tả về túp lều tranh.
Bác bảo:
- Chú đọc cho nghe.
Anh Bỉnh đọc:
Một túp lều tranh vách đá rêu
Trên dòng khe nhỏ nước vui reo.
Nắng xuyên cành lá tung hoa nắng
Cây ngập sườn non lấp lối vào.
Chim hót trong rừng cây bát ngát
Gió lùa cùng những đoá hoa reo.
Nghe xong, Bác hỏi:
- Không có hai câu kết à?
- Thưa Bác, khó quá, cháu chưa nghĩ được.
Bác nói:
- Vậy chú ghi tiếp vào.
- Rồi Bác đọc:
Vì chưng công việc còn bề bộn
Đâu dám nghêu ngao sớm lại chiều.
Nghe thơ của anh, tôi thấy rõ khẩu khí của người trẻ tuổi. Đọc hai câu kết của Bác, tôi thấy rõ khẩu khí của người từng trải đang lo việc nước việc dân.
Sống bên Bác được ít ngày tại núi non Cao Bằng, chúng tôi phải chia tay Bác, đi về dưới xuôi. Lúc chia tay, Bác nói: ''Mình cũng sắp về dưới ấy''./.
Còn nữa
Thanh Huyền (tổng hợp)