Chủ tịch Hồ Chí Minh là người trực tiếp tổ chức và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất để quy tụ sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Người luôn nhận thức sâu sắc và trung thành với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng; vận dụng, bổ sung và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về tập hợp lực lượng cách mạng, trong đó sáng tạo nổi bật là lấy liên minh công - nông - trí làm lực lượng nòng cốt cho Mặt trận Dân tộc thống nhất để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tạo ra sức mạnh đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bác Hồ với đồng bào các dân tộc.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng khối liên minh công - nông trong sự nghiệp cách mạng
Xuất phát từ thực tế cách mạng ở Châu Âu, C.Mác đã nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về chủ nghĩa tư bản trong điều kiện tự do cạnh tranh, từ đó cống hiến cho nhân loại những phát minh vĩ đại bằng học thuyết của mình từ lý luận về “hình thái kinh tế - xã hội” đến học thuyết “giá trị thặng dư”; đặc biệt vào tháng 2/1848 với sự ra đời Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản đã vạch trần bản chất bóc lột của giai cấp tư sản và khẳng định sự diệt vong không thể tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản mà lực lượng làm nên lịch sử là giai cấp công nhân.
Tổng kết thực tiễn phong trào công nhân ở Châu Âu, nhất là ở Anh, Pháp cuối thế kỷ XIX, C.Mác và Ph.Ăngghen đã khái quát thành lý luận về liên minh công, nông và các tầng lớp lao động khác. Các ông đã chỉ ra nguyên nhân chủ yếu của thất bại trong các cuộc đấu tranh là do giai cấp công nhân không tổ chức được mối liên minh với người bạn đồng minh tự nhiên của mình là giai cấp nông dân. Ph.Ăngghen đã khẳng định: Cách mạng vô sản là bài đồng ca của hai giai cấp công nhân và nông dân. Nếu không có bài đồng ca này thì bài đơn ca ở các quốc gia nông dân sẽ là bài ai điếu. Điều đó đã lý giải một cách khoa học về vị trí và tầm quan trọng của vấn đề liên minh công nông trong cách mạng vô sản.
Như vậy, từ lý luận và thực tiễn của phong trào công nhân, trực tiếp nhất là qua cách mạng Đức và Công xã Pari năm 1871, C.Mác và Ph.Ăngghen đều khẳng định: Cuộc cách mạng vô sản hay phong trào công nhân không thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh lật đổ chế độ tư bản nếu không có khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân, trong đó giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo. Điều đó cho thấy các ông đã nhận thức được sự cần thiết phải có sự đoàn kết, liên minh để tạo sức mạnh đủ lớn trong cách mạng vô sản, nhưng mới chỉ dừng lại ở việc liên kết giữa 2 giai cấp công - nông.
Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản đã phát triển mạnh và chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, V.I. Lênin đã vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của C.Mác, Ph.Ăngghen về tổ chức liên minh công - nông và các tầng lớp lao động khác một cách khoa học phù hợp với tình hình thực tế trong Cách mạng XHCN tháng Mười Nga (1917) với phương châm: Hãy cho tôi một tổ chức, tôi sẽ làm đảo lộn cả nước Nga nhằm biến chiến tranh đế quốc thành nội chiến cách mạng. Lênin cho rằng, liên minh công - nông là hai lực lượng chủ công của chính quyền Xô-viết.
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ có liên minh công - nông mà còn liên minh với các tầng lớp lao động khác. Đặc biệt đối với các nước thuộc địa, tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội thì đây chính là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yêu cầu khách quan từ các giai cấp, tầng lớp để tổ chức thành liên minh vững chắc. Đó không chỉ là điều kiện để đưa cách mạng đến thắng lợi mà đồng thời còn làm gia tăng sự đoàn kết để “không có thế lực nào phá vỡ nổi”.
Tuy có đề cập đến các giai cấp, tầng lớp khác ngoài công nhân và nông dân, song tầng lớp trí thức vẫn chưa được xác định là lực lượng nòng cốt nên chưa được nhấn mạnh và coi trọng. Điều này có lẽ do điều kiện lịch sử của xã hội nước Nga Xô-viết lúc bấy giờ khiến V.I.Lênin và Đảng Bôn-sê-vích nhận thức là chỉ có những lực lượng trực tiếp tham gia lao động sản xuất đông đảo nhất trong xã hội mới có thể tạo ra một liên minh vững chắc làm nòng cốt cho khối đoàn kết toàn dân. Mặt khác, có thể do mặt bằng dân trí, trình độ nhận thức, ý thức tổ chức kỷ luật… của công - nông ở nước Nga Xô-viết đã khá cao nên vai trò của trí thức không được thể hiện rõ.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về xây dựng khối liên minh công - nông - trí trong sự nghiệp cách mạng
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì “trí thức là hiểu biết”(1), “trí thức ta là những người lao động trí óc, luôn luôn hòa mình với công nông và cùng công nông ra sức xây dựng xã hội mới”(2), “Lao động trí óc là ai? Là thầy giáo, thầy thuốc, kỹ sư, những nhà khoa học, văn nghệ, những người làm bàn giấy.v.v…”(3) . Như vậy, trí thức là hiểu biết, là những người lao động trí óc (khoa học tự nhiên và khoa học xã hội) đem hiểu biết của mình truyền thụ, phổ biến, hướng dẫn cho mọi người trong xã hội cùng hiểu biết và phát triển.
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, thắng lợi của cách mạng là do sự phấn đấu, hy sinh và trí thông minh, sáng tạo của hàng triệu nhân dân, nhất là công nhân, nông dân và những người trí thức cách mạng”(4), nhân dân là động lực chủ yếu của cách mạng... Vì thế, ngay trong tác phẩm Đường Kách mệnh, mặc dù xác định “Dân chúng công nông là gốc cách mệnh”(5) trong đó công nhân giữ vai trò lãnh đạo, song trong tiến trình cách mạng, dù ở thời kỳ cách mạng giải phóng dân tộc hay cách mạng xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều nhận thức rõ vị trí, vai trò của tầng lớp trí thức cách mạng và xác định xây dựng liên minh công – nông – trí thành lực lượng nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc, tạo động lực cơ bản cho cách mạng.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trí thức là “vốn liếng quý báu của dân tộc”. Tiếp thu truyền thống của dân tộc Việt Nam coi “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ sức mạnh vô tận của trí tuệ con người và sức mạnh lớn lao của một dân tộc giàu tri thức. Người nhận thấy, trí thức không phải là một giai cấp, họ chỉ là một tầng lớp có số lượng khiêm tốn trong xã hội Việt Nam (đầu thế kỉ XX), nhưng luôn đi đầu, là ngòi nổ trong phong trào đấu tranh đòi độc lập, đòi quyền dân tộc, dân chủ. Trí thức cũng là những người luôn đi tiên phong trong việc tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại, đón nhận những luồng tư tưởng mới, tiến bộ để từ đó tuyên truyền, giáo dục quần chúng nhân dân.
Trong Mười chính sách của Việt Minh và Kính cáo đồng bào (1941), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa các bậc Hiền huynh, các Hiền nhân chí sĩ lên hàng đầu. Người coi trí thức là lớp tiên tri, tiên giác. Sau khi giành độc lập, tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (1946), Người khẳng định: “Một phần tương lai của dân tộc” nằm trong sự cố gắng, sự đóng góp của anh chị em trí thức. Người “tin rằng, với kinh nghiệm, với học thức, với sự quyết tâm” của những trí thức cách mạng thì “việc kháng chiến nhất định thành công và nền tự do, độc lập nhất định vững vàng”(6).
Năm 1946, trên cương vị Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, khi trả lời câu hỏi của một nhà báo nước ngoài về vấn đề trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”(7). Tại Đại hội II của Đảng (2/1951), vị trí, vai trò của trí thức được thể hiện rõ hơn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu ra quan điểm: “Đảng Lao động Việt Nam là đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là đảng của dân tộc Việt Nam”; “Về thành phần, Đảng Lao động Việt Nam sẽ kết nạp những công nhân, nông dân, lao động trí óc thật hăng hái, thật giác ngộ cách mạng”(8) “Lao động trí óc” ở đây là cái nền, mà cái lõi là đội ngũ (tầng lớp) trí thức.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh coi trí thức là bộ phận quan trọng trong lực lượng cách mạng.
Người đã nhận rõ sự khác biệt giữa trí thức tại các nước thuộc địa, nửa thuộc địa hay các dân tộc bị áp bức với các nước tư bản đế quốc. Trí thức Việt Nam “dù là trí thức một số khá đông thuộc thành phần phú nông, địa chủ, phong kiến, tư sản mà ra nhưng cũng đều bị đế quốc áp bức”(9). Sự áp bức của thực dân Pháp đối với nhân dân Việt Nam, trong đó bao gồm cả giới trí thức đã được Người tố cáo một cách đanh thép: “Tất cả những người trí thức nào có đôi chút tiếng tăm đều bị đưa đi đày. Tất cả các trường tư thục đều bị đóng cửa và tất cả các sách báo nước ngoài đều bị cấm”(10).
Là những người có học thức, hiểu biết, trí thức Việt Nam rất nhạy bén với cái mới, với những tư tưởng tiến bộ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra hai yếu tố tích cực của trí thức Việt Nam: “Có đầu óc dân tộc và đầu óc cách mạng”(11). Người nhận xét, trí thức “có học thức, dễ có cảm giác chính trị. Họ không trực tiếp bóc lột lao động. Vì vậy, họ dễ tiếp thụ sự giáo dục cách mạng và cùng đi với công nông”(12). Trong tâm thức của mỗi trí thức Việt Nam luôn luôn có ý thức và tình cảm sâu sắc với dân tộc. Đối với họ, dân tộc chính là cái nôi sinh thành và nuôi dưỡng lý trí, tình cảm, tinh thần và trí tuệ, tài năng của mình. Với thế mạnh là nhạy bén về chính trị, những người trí thức Việt Nam nhận thấy rõ tình cảnh của dân tộc và chính bản thân mình. Họ cảm thấy nô lệ, mất nước là “quốc sỉ” và mong muốn tìm lối thoát.
Sự nhạy bén về chính trị và tinh thần cách mạng của trí thức được biểu hiện qua sự ra đời, tồn tại và phát triển nhanh chóng của những tổ chức chính trị của sinh viên, trí thức (phần lớn trong số họ sau này trở thành những đảng viên đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam), mà Nguyễn Ái Quốc đã nhắc đến trong báo cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 5/3/1930: Bên cạnh Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội, còn có ba nhóm chính trị: Nhóm thanh niên ở Nam Kỳ, Tân Việt ở Trung Kỳ và An Nam quốc dân Đảng ở Bắc Kỳ. Nhóm thứ nhất gồm phần lớn là thanh niên, sinh viên; nhóm thứ hai là trí thức; nhóm thứ ba là tiểu tư sản.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thấy rõ, trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, trí thức Việt Nam đã đi tiên phong tham gia cách mạng. Họ chính là lực lượng đi đầu trong việc tiếp thu tư tưởng cách mạng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tích cực truyền bá trong quần chúng nhân dân và hăng hái tham gia vào các tổ chức cách mạng - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhận thức được vị trí, vai trò quan trọng của trí thức Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trước yêu cầu phải có một đường lối chính trị rõ ràng, phải phân định rõ chiến tuyến giữa cách mạng và phản cách mạng, Hồ Chí Minh đã xếp trí thức vào hàng ngũ lực lượng cách mạng của dân tộc do giai cấp vô sản lãnh đạo, là một trong những đồng minh gần gũi của giai cấp công nhân và nông dân. Người khẳng định một cách dứt khoát trong những văn kiện đầu tiên mang tính cương lĩnh của Đảng. Trong Sách lược vắn tắt của Đảng, Người viết: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp”(13). Chương trình tóm tắt của Đảng viết: “Đảng lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản”(14). Việc xác định ngay từ rất sớm vị trí của trí thức trong lực lượng cách mạng đã góp phần cô lập kẻ thù, đưa tầng lớp trí thức về phía cách mạng, tăng cường sức mạnh lớn lao cho cách mạng và vấn đề mang tính chất chiến lược này được khẳng định xuyên suốt trong các giai đoạn cách mạng do Đảng Cộng sản lãnh đạo.
Cuộc cách mạng mà Hồ Chủ tịch, Đảng và nhân dân ta tiến hành là một cuộc cách mạng vô cùng khó khăn, gian khổ với những nhiệm vụ rất lớn lao. Đó là đánh đuổi đế quốc thực dân, đánh đổ phong kiến, đòi lại tự do, độc lập cho dân tộc và ruộng đất cho dân cày, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Những nhiệm vụ ấy được thực hiện khi ở Việt Nam có đến 95% dân số mù chữ, nền kinh tế nước ta ở vào tình trạng hết sức lạc hậu, tiêu điều, kiệt quệ, nhân dân hết sức cực khổ, lầm than. Trong hoàn cảnh ấy, nhiệm vụ cách mạng của các giai cấp, của nhân dân Việt Nam càng trở nên nặng nề, trong đó giới trí thức cũng phải đảm nhận nhiều trọng trách lớn hơn, phức tạp hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội”(15). Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trí thức phải tuyên truyền, giáo dục quần chúng những tư tưởng cách mạng, là ngòi nổ cho các phong trào cách mạng, đấu tranh chống lại những luận điệu phản động, mị dân của kẻ thù. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, trí thức phải đi đầu trong việc nâng cao dân trí, xây dựng và kiến thiết nước nhà. Người khẳng định: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản chủ nghĩa lại càng cần”(16).
Người nhấn mạnh: “Chính là những đảng cách mạng lại càng trọng trí thức: vì muốn phát triển văn hóa thì phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khỏe của nhân dân thì phải cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ phải cần các kỹ sư.v.v... Tóm lại cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới biết trọng trí thức”(17). Trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn, tài năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức. Đội ngũ trí thức đồng hành cùng dân tộc tiến hành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong suốt quá trình cách mạng “Trí thức không có bao giờ thừa, chỉ có thiếu trí thức thôi”(18).
Từ vị trí, vai trò cực kỳ quan trọng của đội ngũ trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đây là lực lượng cơ bản và đưa họ tham gia vào khối liên minh công - nông - trí để tạo ra thế “chân kiềng” vững chắc làm nòng cốt cho khối đại đoàn kết dân tộc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi trong mọi giai đoạn cách mạng “công, nông, trí cần phải đoàn kết chặt chẽ thành một khối”(19). Theo Người, “Tính chất cách mạng của ta là cách mạng dân chủ mới, cho nên động lực cách mạng gồm có những giai cấp: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản”(20). Người nhấn mạnh: “Tuyên ngôn của Đảng nói: "Đảng Lao động Việt Nam sẽ gồm những công nhân, nông dân và lao động trí óc yêu nước nhất, hăng hái nhất, cách mạng nhất” và: “Lao động trí óc cần được khuyến khích giúp đỡ, phát triển tài năng”(21) . Khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng, giai cấp nông dân là đội quân chủ lực của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xếp tầng lớp tiểu tư sản (trong đó có trí thức) là đồng minh của giai cấp công nhân, là một động lực của cách mạng, là một lực lượng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là chân lý hiển nhiên không chỉ đúng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân mà còn đúng trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Không có tầng lớp trí thức hợp tác với giai cấp công, nông thì cách mạng không thể thành công và sự nghiệp xây dựng một nước Việt Nam mới sẽ không thể hoàn thành được. Thực tế cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ta ra đời và lãnh đạo cách mạng đã chứng minh điều đó là hoàn toàn đúng đắn. Sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh công - nông - trí thức sẽ khắc phục được mọi khó khăn, trở ngại để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Xác định liên minh công - nông - trí thức là nền tảng vững chắc của hệ thống chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc nhở: “Giai cấp công nhân đoàn kết chặt chẽ với giới trí thức, để giúp họ phục vụ cách mạng, phục vụ chủ nghĩa xã hội”(22) và “Trên con đường tiến đến đoàn kết, tôi thiết tưởng trí thức ta nên tự động đi bước trước tìm đến công nông, và tôi chắc rằng công nông sẽ nhiệt liệt hoan nghênh trí thức”(23).
Những trí thức Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945 hầu hết được đào tạo trong các nhà trường của chế độ thực dân phong kiến hoặc làm việc trong bộ máy của chế độ cũ nên ít nhiều chịu ảnh hưởng của tư tưởng, lề lối làm việc cũ như: Lập trường thiếu kiên định, tính kỷ luật chưa cao, xa rời quần chúng... “lý luận không đi đôi với thực hành, xem khinh lao động, tư tưởng mơ hồ, lập trường không vững, khi hành động thì hay lung lay”(24). Để trở thành người lao động chân chính, thành lực lượng quan trọng của cách mạng, thành bộ phận nòng cốt không thể thiếu của khối liên minh công - nông - trí thức, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Trí thức ta cần cải tạo tư tưởng, sửa đổi lề lối làm việc”(25). “Mục đích cải tạo là làm cho những người trí thức chúng ta trở thành những người trí thức của giai cấp công nhân, hết lòng hết sức phục vụ công nông, góp phần xứng đáng và vẻ vang vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội”(26). Muốn vậy cần phải thực hiện: “Công nông trí thức hóa. Trí thức công nông hóa. Nghĩa là công nông cần học tập văn hóa để nâng cao trình độ tri thức của mình, trí thức cần gần gụi công nông và học tập tinh thần, nghị lực, sáng kiến và kinh nghiệm của công nông. Đó là nhiệm vụ chung và cần kíp, mà chúng ta phải cùng nhau cố gắng làm cho kỳ được”(27). Theo Người, cần phải đưa trí thức tham gia trực tiếp vào công cuộc kháng chiến, kiến quốc, để “anh em trí thức cũng biết trọng lao động, cũng biết làm lao động, hợp thành một khối với công nông, nâng cao trình độ công nông về văn hóa lý luận”(28). Từ quan điểm chỉ đạo đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều trí thức đã hăng hái xung phong ra tiền tuyến, trực tiếp vào các nhà máy, ruộng đồng, học tập, lao động, xây dựng ý thức phục vụ công nông, cải tạo tư tưởng, sửa đổi lối làm việc, trở thành những trí thức cách mạng chân chính. Bởi vì, chỉ có gắn bó với công nông, phục vụ, suy tư, trăn trở về những vấn đề có liên quan đến vận mệnh của đất nước, dân tộc, hạnh phúc của nhân dân, hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, trí thức mới khẳng định được vai trò, vị trí của mình đối với sự phát triển của đất nước, dân tộc. Đó cũng chính là tiền đề quan trọng để khối liên minh công - nông - trí ngày càng được củng cố bền chặt, tăng cường sức mạnh và thực sự trở thành hạt nhân của khối đại đoàn kết toàn dân tộc./.
ThS. Vũ Tuấn - Học viện Kỹ thuật Quân sự
Nguồn tcnn.vn
Trần Thanh Huyền (st)
--------------------------
Ghi chú:
(1),(7) Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 2011, tr.275, tr.184.
(2) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 13, tr.118.
(3),(8),(15),(21),(25),(27) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 7. tr.71, tr.40, tr.72,tr.71, tr.72, tr.72.
(4) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 14, tr.467.
(5) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 2, tr.297.
(6) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 4, tr.176.
(9),(11),(12),(16),(17),(18),(20),(24),(28) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 8, tr.53, tr.54, tr.258, tr.59, tr.53, tr.56, tr.255, tr.258, tr.57.
(10),(13),(14) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 3, tr.38, tr.3, tr.4.
(19),(23) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 10, tr.376, tr.377.
(22) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 12, tr.371.
(26) Hồ Chí Minh, toàn tập, Sđd, tập 11, tr.243.