Cách đây 50 năm, từ đêm 30-01 đến ngày 25-02-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân của quân và dân miền Nam đã diễn ra vô cùng mãnh liệt, đồng loạt đánh vào 4 trong 6 thành phố, 37 trong 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận lỵ trên khắp miền Nam. Quân giải phóng đã đánh trúng hầu hết các cơ quan đầu não từ Trung ương đến địa phương của địch; tiến công 4 Bộ Tư lệnh quân đoàn, 8 Bộ tư lệnh sư đoàn, 2 Bộ Tư lệnh biệt khu, 30 sân bay và gần 100 cơ sở hậu cần... Trong đó, có những trận gây chấn động lớn trong giới cầm quyền Mỹ và có tiếng vang mạnh mẽ trên thế giới như trận đánh vào Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc Lập, Bộ Tổng Tham mưu, Đài Phát thanh của chính quyền Sài Gòn và đặc biệt đã làm chủ thành phố Huế trong 25 ngày đêm... Chính những đòn tiến công với quy mô rộng lớn, mãnh liệt đó đã làm tổn hại nặng nề sinh lực và phương tiện chiến tranh của Mỹ và quân đội Sài Gòn với sự thương vong của 101.000 quân Mỹ và quân đội Sài Gòn(1), cùng 1.368.000 tấn vật tư chiến tranh, chiếm 34% dự trữ chiến tranh của địch; gần 20 vạn binh lính Sài Gòn hoang mang đào, rã ngũ. Hệ thống chính quyền cùng bộ máy kìm kẹp của chúng ở nhiều vùng nông thôn đồng bằng, rừng núi đã bị phá vỡ, chương trình "bình định" bị thiệt hại nặng ở nhiều nơi.
Quân giải phóng, lực lượng biệt động, đặc công nhận nhiệm vụ và tuyên thệ trước giờ
xuất kích Tổng tiến công Sài Gòn xuân Mậu Thân 1968.
Nguồn internet.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là một chiến công rất oanh liệt và có vị trí to lớn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây
là thắng lợi đã tạo ra bước ngoặt quyết định của cuộc kháng chiến làm lung lay tận gốc ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc chúng phải bước đầu xuống thang chiến tranh, tạo điều kiện thuận lợi để quân và dân Việt Nam thực hiện mục tiêu chiến lược "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 đã đánh dấu thành công nổi bật về chỉ đạo chiến lược, thể hiện sự sáng tạo của Đảng Lao động Việt Nam và đây là bước phát triển mới trong học thuyết và nghệ thuật quân sự Việt Nam.
- Điểm nổi bật trong chỉ đạo chiến lược của Đảng là xác định phương pháp tiến công táo bạo với cách đánh hoàn toàn mới.
Tháng 01 - 1968, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ 14. Sau khi phân tích, đánh giá âm mưu cơ bản và thất bại của địch trong thời gian qua, khả năng của chúng sắp tới; đánh giá những mặt mạnh và những mặt yếu của ta, Trung ương kết luận: "Những điểm cơ bản của tình hình vẫn là ta đang ở thế thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch đang ở thế thua, thế bị động và khó khăn. Tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới, thời kỳ tiến công và nổi dậy giành thắng lợi quyết định"(2).
Từ kết luận trên, Trung ương Đảng xác định: "Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta trong thời kỳ mới là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, dùng phương pháp tổng công kích và tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”.
Từ phương hướng, nhiệm vụ đó, Đảng đã lựa chọn và quyết định thực hiện phương pháp tiến công đồng loạt dưới nhiều hình thức (quân sự, chính trị, binh vận) bằng nhiều lực lượng (chủ lực, đặc công, biệt động, lực lượng tại chỗ...) tiến công vào hầu khắp các đô thị, cơ quan đầu não, nơi chính quyền địch mạnh. Cuộc tiến công mãnh liệt vào các mục tiêu xung yếu ở Sài Gòn, Gia Định - nơi tập trung cơ quan đầu não cao nhất của địch đã có ảnh hưởng rất rộng lớn, sâu sắc. Với quy mô to lớn và tính chất đồng loạt, Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 là hình thức tiến công chiến lược táo bạo và hoàn toàn mới với hiệu lực chiến đấu "cộng hưởng" lớn chưa từng có, làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ. Chính cuộc tiến công táo bạo với cách đánh hoàn toàn mới này đã làm cho những người điều hành chiến tranh Hoa Kỳ sững sờ, choáng váng. Chỉ trong 24 tiếng đồng hồ đầu tiên trong đợt tiến công, toàn bộ hậu phương an toàn nhất của địch, tất cả các thành phố, tỉnh lỵ trước đó hầu như "đứng ngoài cuộc chiến tranh" đều bị tiến công đồng loạt. Chính tướng Oétmolen, Tổng Chỉ huy Quân đội Mỹ lúc đó ở miền Nam Việt Nam, đã phải thừa nhận: "Việt cộng đã đưa chiến tranh đến các thành phố, các đô thị, đã gây thương vong thiệt hại và nền kinh tế bị phá hoại... các trung tâm huấn luyện bị đóng cửa. Nói theo quan điểm thực tế thì chúng ta phải công nhận đối phương đã giáng cho chính phủ Nam Việt Nam một cú đấm nặng nề". Đối với nước Mỹ thì Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 đã tạo ra "Một cảm giác thất vọng, u sầu bao trùm chính giới Oasinhtơn. Chính phủ bị xúc động"(3).
- Lựa chọn thời cơ đúng để đạt hiệu quả cao, tạo ra bước ngoặt quyết định của chiến tranh.
Chọn thời cơ là một vấn đề có tầm đặc biệt quan trọng để tiến hành chiến tranh thắng lợi. Muốn có thời cơ, phải biết dự kiến và biết tạo thời cơ; khi thời cơ xuất hiện phải nắm vững và phải chớp lấy thời cơ không được bỏ. Nguyễn Trãi - nhà chính trị, ngoại giao kinh bang tế thế, nhà chiến lược lớn của dân tộc, đã chỉ rõ: Người giỏi dùng binh là ở chỗ biết rõ thời thế. Được thời, có thế, thì mất biến thành còn, nhỏ hoá ra lớn; mất thời, không thế, thì mạnh hóa ra yếu, yên hóa ra nguy; sự thay đối ấy chỉ trong khoảng trở bàn tay.
Nhận thức đúng vấn đề này, Đảng ta đã chọn thời cơ vào năm 1968 là năm bầu cử Tổng thống Mỹ, năm mà tình hình nước Mỹ rất nhạy cảm về chính trị. Vào thời điểm này, Mỹ đã trải qua ba năm đưa quân viễn chinh trực tiếp tham chiến ở Việt Nam. Chúng đã từng mở hai cuộc phản công chiến lược vào mùa khô 1965 - 1966 và 1966 - 1967 nhưng không đạt được kết quả gì đáng kể, trái lại chúng còn bị quân, dân miền Nam đánh cho thiệt hại nặng nề và thất bại hoàn toàn trong mục tiêu chiến lược "bẻ gãy xương sống Việt cộng". Đồng thời, những bước leo thang đánh phá miền Bắc hòng ngăn chặn sự chi viện cho miền Nam và uy hiếp tinh thần kháng chiến của nhân dân ta cũng không xoay chuyển được tình thế. Những cố gắng của Mỹ vào thời điểm này đã gần đến đỉnh cao. Tính đến tháng 12 - 1967, Mỹ đã huy động vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam nửa triệu quân với 40% số sư đoàn bộ binh sẵn sàng chiến đấu của nước Mỹ, 30% lực lượng không quân chiến thuật, hơn 30% lực lượng hải quân. Lực lượng dự trữ dành cho một cuộc "chiến tranh cục bộ", Mỹ đã dùng hết, thậm chí còn sử dụng cả một phần lực lượng dự trữ dành cho chiến lược toàn cầu, chi phí cho chiến tranh Việt Nam đến năm 1968 lên tới gần 70 tỉ đô la (gấp 3 lần chiến tranh Triều Tiên). Gánh nặng chiến tranh Việt Nam đã ảnh hưởng nặng nề đến nền kinh tế và xã hội nước Mỹ, đến chiến lược toàn cầu và xây dựng quốc phòng của Mỹ. Đế quốc Mỹ đang trong tình thế "tiến thoái lưỡng nan", về phía ta, đây là lúc lực lượng quân sự, chính trị ở miền Nam đã lớn mạnh hơn bất kỳ thời kỳ nào trước đó và đang nắm quyền chủ động trên chiến trường.
Từ những phân tích đánh giá trên, Đảng ta khẳng định: "Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn", tình hình đó cho phép chúng ta "có thế chuyển cuộc chiến tranh cách mạng sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định".
Thời điểm năm 1968 hội tụ các điều kiện thuận lợi cả về quân sự và chính trị cho giành thắng lợi lớn theo ý định của ta. Thời cơ này được ta tạo ra và nắm bắt đúng lúc, không sớm và cũng không muộn. Nếu đánh sớm, ta chưa làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965 - 1966, 1966 - 1967 thì Mỹ sẽ chưa chịu thua vì còn cả quỹ thời gian và lực lượng để triển khai đầy đủ chiến lược "chiến tranh cục bộ". Nếu ta để muộn, cuộc Tổng tiến công diễn ra sau năm bầu cử Tổng thống Mỹ thì áp lực quân sự khó làm rung chuyển nước Mỹ, khó làm lung lay ý chí xâm lược của giới cầm quyền. Độc đáo hơn, ta chọn thời cơ tiến công vào dịp Tết Nguyên đán đúng đêm giao thừa, lúc mà địch sơ hở, chủ quan. Vì thế, khi ta tiến công, địch hoàn toàn bị bất ngờ. Chúng không chỉ bất ngờ về thời gian mà còn bất ngờ về mục tiêu bị tiến công là các đô thị, các căn cứ quan trọng và bất ngờ cả về quy mô của cuộc tiến công khi ta không đánh vào vài chục điểm nhỏ như phán đoán của tình báo địch, mà đánh đồng loạt trên khắp chiến trường miền Nam.
- Lựa chọn đúng hướng tiến công chủ yếu.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mâu Thân 1968 được Đảng lựa chọn nhằm vào đô thị, nơi tập trung các cơ quan đầu não Trung ương và địa phương của chính quyền Sài Gòn. Đó là những mục tiêu tập trung sinh lực cao cấp của cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn, những mục tiêu nhạy cảm nhất trong bộ máy chiến tranh của chúng ở miền Nam. Cả Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn cho rằng lực lượng ta ít kinh nghiệm đánh thành phố và chưa có khả năng đánh vào các trung tâm đầu não của chúng. Hơn nữa, từ năm 1968, ta chủ động mở Mặt trận Đường 9, coi đây là một hướng tiến công của quân chủ lực để tiêu hao, tiêu diệt địch, đồng thời kéo một lực lượng lớn quân Mỹ ra giam chân tại Khe Sanh. Vào đúng lúc tướng Oétmolen đang cố gắng điều động lực lượng lên "cố giữ bằng được cái chốt Khe Sanh" thì "Việt cộng lại mở một loạt trận tiến công táo bạo và bất ngờ vào hầu hết các căn cứ Mỹ và ngụy ở Nam Việt Nam".
Có thể nói, chọn đánh vào đô thị làm hướng tiến công chủ yếu là ta đã chọn đánh vào nơi hiểm yếu nhất của kẻ thù. Đòn hiểm yếu đó đã phơi bày đầy đủ sự thất bại về quân sự và sự yếu kém của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đây là lần đầu tiên trong suốt gần 15 năm kháng chiến, chúng ta đã đưa được chiến tranh vào thành thị, thực hiện một đòn đánh hiểm, đánh đau, đánh vào "trung ương thần kinh địch". Robert Kennơđi, Thượng nghị sĩ Mỹ đã phải thốt lên rằng: Tại sao nửa triệu lính Mỹ với 70 vạn lính Nam Việt Nam cộng tác, có ưu thế hoàn toàn trên không và trên biển, được cung cấp hết sức đầy đủ và được trang bị những vũ khí hiện đại nhất lại không có khả năng bảo vệ được thành phố khỏi bị đối phương tấn công?
- Tổ chức, bố trí và điều động lực lượng thực hiện nghi binh, lừa địch để tiến công gây bất ngờ lớn đối với địch.
Để thực hiện tiêu diệt, tiêu hao, vừa nghi binh thu hút, giam chân một phần lực lượng quân cơ động Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động chính tổng tiến công và nổi dậy ở thành thị, Bộ Chính trị, Trung ương Đảng đã chỉ đạo lực lượng vũ trang nổ súng đánh địch ở Khe Sanh. Chính hoạt động này đã thu hút được sự chú ý của địch ra vùng giới tuyến và giam chân một nửa lực lượng của Mỹ ở miền Nam gồm 17 trên tổng số 33 lữ đoàn(4), buộc chúng phải phân tán lực lượng trên nhiều khu vực chiến trường. Nhận xét về tài nghệ nghi binh của ta, Maicơn Mácia, tác giả cuốn sách Việt Nam cuộc chiến tranh mười ngàn ngày, đã viết: Nhưng rồi các trận đánh trong Tết Mậu Thân làm người ta có cảm tưởng rằng Khe Sanh có vẻ như là cuộc bao vây bỏ đấy mà thôi. Nếu vậy thì Bắc Việt Nam là bậc thầy trong việc nghi binh. Sách Việt Nam - Giờ quyết định của Hãng thông tấn Pháp AFP tiết lộ: Những sai lầm nặng nhất của các tổ chức tình báo - không còn nghi ngờ chút nào - là không tin rằng Việt cộng có thể huy động được số người đông đảo và ném ra những cuộc tiến công hết sức ác liệt với một sự hợp đồng chặt chẽ và một cường độ lớn như vậy.
Cuộc Tống tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, dù chưa đạt được mục tiêu chiến lược "giành thắng lợi quyết định", chưa đạt được theo khả năng thứ nhấ: “Ta thắng lớn, Mỹ buộc phải chịu thua, phải thương lượng với ta để kết thúc chiến tranh”; ta còn có những sai lầm, khuyết điểm. Nhưng đây là cuộc động binh lớn nhất trong lịch sử chống Mỹ, cứu nước từ năm 1954 đến lúc này. Lần đầu tiên ta đưa chiến tranh tới hang ổ của kẻ thù, làm đảo lộn kế hoạch chiến tranh và thế bố trí chiến lược của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Do thất bại nặng nề này, Tổng thống L.Giônxơn phải tuyên bố: Đơn phương chấm dứt không điều kiện việc đánh phá bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra; loại bỏ mọi cuộc leo thang lớn; huỷ bỏ kế hoạch chiến lược "tìm và diệt" quay sang thực hiện "quét và giữ", đây tới sự thất bại hoàn toàn của chiến lược "chiến tranh cục bộ". Đánh giá về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: 'Ta đã thắng rất to, địch đã thua rất nặng nề. Rõ ràng trận này đã mở ra một bước ngoặt chiến lược đánh dấu thời kỳ Mỹ phải xuống thang chiến tranh do thất bại trong "chiến tranh cục bộ"(4). Thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt Xuân Mậu Thân 1968 chứng tỏ khả năng và tài nghệ chỉ đạo chiến lược, chỉ đạo chiến tranh tài tình, sắc bén, táo bạo của Đảng ta.
Từ những thành công về chỉ đạo chiến lược của Đảng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 cho chúng ta bài học lớn để tiếp tục vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Đó là nêu cao ý chí kiên cường, táo bạo, dám nghĩ, dám làm và quyết tâm cao, kết hợp với trí tuệ sáng tạo tuyệt vời của con người Việt Nam xóa bỏ đói nghèo và lạc hậu. Đồng thời, luôn xuất phát từ thực tiễn, dựa vào dân, tin tưởng ở nhân dân, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tranh thủ thời cơ, kịp thời đề ra những bước đi, những quyết sách phù hợp với quy luật khách quan, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.
Thiếu tướng Nguyễn Văn Bạo
Giám đốc Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Theo “Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968
- Bước ngoặt quyết định và bài học lịch sử”,
NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017,tr123-128
Trần Duy Hưng (tổng hợp)
Chú thích:
(1) Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam: Lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975), Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990, t.l, tr.311.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Sđd, t.29, tr.50.
(3) Am tơ: Lời phán quyết về Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1985, tr124.
(4) Văn Tiến Dũng: Về cuộc kháng chiến chững Mỹ, cứu nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.208.