Ảnh minh họa - Nguồn: dangcongsan.vn
Công cuộc đổi mới xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là một sự nghiệp vĩ đại, cao cả và rất mới mẻ vì chưa có tiền lệ. Đổi mới là một dòng chảy liên tục, là một quá trình kế thừa, kiến tạo và phát triển không ngừng. Trong quá trình phát triển ở từng giai đoạn, thực tiễn luôn đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng ta đưa ra những chủ trương, quyết sách đúng đắn, kịp thời và lãnh đạo thực hiện một cách hiệu quả, tạo cơ sở vững chắc cho việc tiếp tục giải quyết những yêu cầu của giai đoạn tiếp theo.
Trong điều kiện của thế giới hiện nay, toàn cầu hóa với sự tác động chưa từng có của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ kéo tất cả các nước tham gia quá trình hội nhập quốc tế và hội nhập quốc tế trở thành một tất yếu khách quan. Hội nhập để phát triển, muốn phát triển phải hội nhập. Tuy nhiên, quá trình hội nhập quốc tế luôn chứa đựng nhiều cơ hội và nhiều thách thức. Hội nhập quốc tế trong một môi trường cạnh tranh quyết liệt về chính trị, kinh tế, sự chi phối của các nước lớn và những diễn biến phức tạp, hết sức khó lường của thế giới, đòi hỏi phải giữ vững độc lập, tự chủ, bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Như vậy, hội nhập quốc tế vừa là đòi hỏi khách quan của thời cuộc, vừa là nhu cầu tồn tại của mỗi nước. Mỗi quốc gia và mỗi giai cấp nắm chính quyền đều theo đuổi các mục tiêu và lợi ích khác nhau, thậm chí đối lập, nên hội nhập quốc tế càng mạnh và rộng mở thì tính phức tạp của quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh càng gia tăng.
Đảng ta luôn dành sự quan tâm sâu sắc cho việc phân tích bối cảnh quốc tế, bám sát bước đi của nhân loại, tận dụng sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, đưa đất nước vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, vừa phát triển nhanh, bền vững, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó, cần xác định rõ những tác động hai mặt của hội nhập quốc tế và đưa ra những định hướng, chính sách xác đáng.
Hội nhập quốc tế và tác động đối với việc bảo đảm quốc phòng, an ninh và phát triển nhanh, bền vững
Hội nhập quốc tế là quá trình quốc gia tham gia hợp tác, liên kết quốc tế trong lĩnh vực kinh tế và những lĩnh vực khác, tạo điều kiện kết hợp có hiệu quả nguồn lực trong nước với nguồn lực quốc tế, mở rộng không gian và môi trường để phát triển, chiếm lĩnh vị trí thích hợp trong quan hệ quốc tế. Quá trình hội nhập quốc tế diễn ra ở nhiều cấp độ và nhiều phương thức khác nhau. Các cấp độ hội nhập được thể hiện ở nhiều mức, từ thấp đến cao, từ song phương đến đa phương; có khi hội nhập được thực hiện cùng một lúc trong nhiều lĩnh vực với nhiều cấp độ. Có thể nói, cả thế giới đang trong cao trào hội nhập quốc tế với tốc độ ngày càng nhanh và lĩnh vực ngày càng nhiều, dẫn tới sự tùy thuộc lẫn nhau ngày càng gia tăng. Chính vì thế, hội nhập quốc tế là quá trình phức tạp chứa ẩn nhiều yếu tố thuận, nghịch. Xem xét trên hai lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong mục tiêu hội nhập quốc tế ở các quốc gia, trong đó có Việt Nam, là việc bảo đảm an ninh quốc phòng và phát triển nhanh, bền vững, có thể thấy rõ hội nhập quốc tế tác động hai chiều thuận - nghịch.
Tác động đối với việc bảo đảm an ninh, quốc phòng
Hội nhập quốc tế một cách chủ động, tích cực, sâu rộng, hiệu quả là phương thức tốt nhất để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, sức mạnh quốc tế cộng hưởng với sức mạnh quốc gia, qua đó càng tăng cường, tạo điều kiện cho việc bảo đảm an ninh, quốc phòng và giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Điều này thể hiện trên mấy khía cạnh:
Thứ nhất, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; trên cơ sở đó, bảo đảm tốt về an ninh, quốc phòng. Hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ mở ra cơ chế phối hợp chặt chẽ và thống nhất giữa các nước và các khu vực để hạn chế và đẩy lùi các nguy cơ khủng bố, xung đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai.
Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp cho việc tận dụng và phát huy các nguồn lực bên ngoài bổ sung cho các nguồn lực trong nước. Đó là những điều kiện về kỹ thuật, trang thiết bị cho quốc phòng, an ninh, là những kinh nghiệm quý của quốc tế.
Thứ ba, thông qua quá trình hội nhập quốc tế, có thể thấy rõ những lợi ích cùng chiều trong quan hệ với nước khác để thúc đẩy hợp tác; đồng thời thấy rõ những khía cạnh lợi ích khác chiều để càng nhận rõ hơn quan hệ đối tác, đối tượng và có đối sách thích hợp.
Thứ tư, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những quan hệ có lợi cho đất nước, góp phần tham gia các định chế chung, tạo sự cân bằng đan xen lợi ích và cân bằng với các nước lớn; tập hợp được các lực lượng tiến bộ yêu chuộng hòa bình trên thế giới để góp phần ngăn chặn những ý đồ và hành vi xâm phạm chủ quyền của đất nước.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế cũng có những tác động không thuận đến việc bảo đảm quốc phòng, an ninh của đất nước... Thế giới đã chứng kiến sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước có thể chuyển hóa thành sự lệ thuộc vào một đối tác cụ thể. Đối với những nước nghèo, kém phát triển, tham gia hội nhập quốc tế rất dễ bị lệ thuộc vào bên ngoài. Hội nhập dễ dẫn đến tình trạng bị chi phối về văn hóa, làm xói mòn bản sắc văn hóa dân tộc, làm mất đi chỗ dựa tinh thần cho việc bảo đảm quốc phòng, an ninh, làm gia tăng nguy cơ bất ổn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cũng cần chú ý đến những thỏa hiệp về lợi ích giữa các nước lớn với nhau tác động tiêu cực đến an ninh, quốc phòng ở các nước khác.
Tác động đối với phát triển nhanh, bền vững
Hội nhập quốc tế tạo thuận lợi cho Việt Nam thu hút nguồn lực để phát triển, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, phát triển đất nước nhanh, bền vững. Điều đó thể hiện trên những khía cạnh: Thứ nhất, hội nhập quốc tế giúp cho việc tham gia đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế quốc tế, như Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)... Sự tham gia các thể chế kinh tế - tài chính này tạo điều kiện cho Việt Nam chia sẻ kinh nghiệm, cách thức và chiến lược phát triển, góp phần giảm thiểu rủi ro. Thứ hai, hội nhập quốc tế giúp cho việc thu hút vốn đầu tư, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến, đặc biệt là kỹ năng quản lý đất nước, điều chỉnh vai trò của Nhà nước phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung quản lý, điều hành vĩ mô, kiến tạo phát triển và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội. Việc huy động và phân bổ các nguồn lực gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, góp phần cải cách hành chính. Thông qua hội nhập quốc tế, năng lực và kinh nghiệm quản lý kinh tế thị trường được nâng lên và hiệu quả hơn. Từ đó, Nhà nước định hướng phát triển và đưa ra các giải pháp khả thi để “đi trước, đón đầu”, tăng tốc phát triển kinh tế - xã hội. Thứ ba, hội nhập quốc tế tạo động lực thúc đẩy cho các nhà quản lý, doanh nhân, doanh nghiệp trong nước nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua tăng cường quản trị, đổi mới công nghệ và phương thức kinh doanh. Việc thực hiện các cam kết hội nhập giúp các doanh nghiệp giảm chi phí đầu vào, đơn giản hóa quy trình, thủ tục, tiếp cận vốn, công nghệ và phương thức quản lý, kinh doanh để tăng khả năng cạnh tranh.
Bên cạnh những tác động tích cực, hội nhập quốc tế cũng tác động tiêu cực đến việc phát triển nhanh, bền vững. Đó là việc nền kinh tế còn yếu kém nhiều mặt dễ bị tổn thương và dễ bị phụ thuộc nhiều hơn vào bên ngoài. Trong môi trường hội nhập sâu rộng, những biến động kinh tế bất lợi từ thế giới và khu vực sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế trong nước. Việc mở cửa thị trường trong điều kiện sức cạnh tranh yếu kém sẽ tiềm ẩn rủi ro là nhiều lĩnh vực kinh tế bị bên ngoài thâu tóm, nhiều doanh nghiệp bị thua ngay trên sân nhà. Ngay việc thu hút đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, nếu không được cân nhắc và kiểm soát kỹ thì dễ bị tiếp nhận những công nghệ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng trực tiếp đến phát triển nhanh, bền vững.
Quan điểm của Đảng ta về hội nhập quốc tế
Tại Đại hội VI - Đại hội mở đầu thời kỳ đổi mới đất nước, Đảng ta nhận định: Cách mạng khoa học - kỹ thuật ngày càng phát triển và có vai trò ngày càng quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới. Đồng thời, Đại hội đưa ra chủ trương hợp tác kinh tế và khoa học - kỹ thuật đối với các nước. Tới Đại hội VII, Đảng đưa ra định hướng đa dạng hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế. Đến Đại hội VIII, thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong Văn kiện của Đảng: “Xây dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Văn kiện Đại hội IX của Đảng nhấn mạnh: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tại Đại hội X, Đảng nhấn mạnh chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác trên các lĩnh vực khác”. Đại hội XI khẳng định chủ trương “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (không chỉ hội nhập về kinh tế), nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ và phát triển nhanh, bền vững”. Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Triển khai mạnh mẽ định hướng chiến lược chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Bảo đảm hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và cả hệ thống chính trị, đẩy mạnh hội nhập trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, gắn kết chặt chẽ và thúc đẩy quá trình nâng cao sức mạnh tổng hợp, năng lực cạnh tranh của đất nước; hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế; hội nhập là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh, chủ động dự báo, xử lý linh hoạt mọi tình huống, không để rơi vào thế bị động, đối đầu, bất lợi”(1).
Bên cạnh việc xác định những quan điểm chỉ đạo về hội nhập quốc tế thể hiện trong các văn kiện của các đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TƯ, ngày 05-02-2007, “Về một số chủ trương, chính sách để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới”. Sau đó, Bộ Chính trị khóa XI đã ban hành Nghị quyết số 22-NQ/TƯ, ngày 10-4-2013, “Về hội nhập quốc tế”. Sau Đại hội XII, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã ban hành Nghị quyết về “Thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”.
Như vậy, hội nhập quốc tế là một chủ trương nhất quán, là định hướng chiến lược lớn của Đảng ta nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết số 22-NQ/TƯ của Bộ Chính trị khóa XI xác định: “Hội nhập quốc tế phải nhằm củng cố môi trường hòa bình, tranh thủ tối đa các điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước nhanh và bền vững, nâng cao đời sống nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; quảng bá hình ảnh Việt Nam, bảo tồn và phát huy bản sắc dân tộc; tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của đất nước; góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”. Quan điểm nhất quán của Đảng ta là: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở giữ vững đường lối độc lập tự chủ, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì hòa bình, hợp tác và phát triển, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Hội nhập quốc tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia. Hội nhập quốc tế nhằm thiết thực thực hiện mục tiêu phát triển đất nước nhanh, bền vững và bảo đảm quốc phòng, an ninh; thúc đẩy mối quan hệ biện chứng giữa việc bảo đảm quốc phòng, an ninh với phát triển nhanh, bền vững. Đồng thời khi đất nước phát triển nhanh, bền vững, quốc phòng, an ninh được bảo đảm sẽ thúc đẩy hội nhập quốc tế càng thêm sâu, rộng và hiệu quả.
Những kết quả và kinh nghiệm bước đầu
Về hội nhập và bảo đảm quốc phòng, an ninh
Cụ thể hóa và triển khai các quan điểm chỉ đạo của Đảng về hội nhập quốc tế phục vụ cho việc củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, trong những năm qua Việt Nam đã thực hiện bước chuyển căn bản từ chú trọng mở rộng quan hệ với các nước sang đưa mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định. Tiếp tục đẩy mạnh làm sâu sắc mối quan hệ song phương giữa Việt Nam với các nước, nhất là các nước láng giềng, các nước trong khu vực, các nước lớn, các nước bạn bè truyền thống và các đối tác tiềm năng. Trong việc hợp tác với các nước có nhiều nội dung về quốc phòng - an ninh, như huấn luyện, đào tạo về chuyên môn và kỹ năng quân sự - an ninh; phối, kết hợp trong việc phòng, chống tội phạm xuyên quốc gia; phòng, chống ma túy, bảo đảm an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống. Cùng với việc tham gia hầu hết các diễn đàn an ninh khu vực, Việt Nam đang mở rộng các hoạt động hợp tác quân sự, như trao đổi các đoàn quân sự cấp cao, tiếp nhận tàu hải quân của các nước sang thăm thiện chí; tiến hành tuần tra chung giữa hải quân Việt Nam với hải quân một số nước. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ quốc phòng, an ninh với 80 nước, bao gồm tất cả các thành viên trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Quan hệ quốc phòng - an ninh thông qua hội nhập quốc tế không chỉ nâng tầm vị thế chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế, mà còn làm gia tăng tiềm năng và sức mạnh quân sự, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước góp phần giữ vững môi trường hòa bình trong khu vực và quốc tế.
Hội nhập quốc tế để phát triển nhanh, bền vững
Thực hiện những quan điểm của Đảng, căn cứ Chương trình hành động thế kỷ XXI của quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban hành “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng phát triển nhanh, bền vững ở Việt Nam nêu bật vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường, những thách thức mà Việt Nam phải đối phó. Từ đó, định hướng chiến lược đưa ra những quan điểm, chủ trương, chính sách, các cơ sở pháp lý và những nhiệm vụ cần tập trung giải quyết. Định hướng phát triển bền vững ở Việt Nam được xác định rõ là không thay thế các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển hiện có của đất nước, mà nhằm mục đích làm căn cứ lý luận và thực tiễn để cụ thể hóa các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dài hạn của Việt Nam. Định hướng trên cơ sở cụ thể hóa các tiêu chí phát triển về kinh tế, văn hóa, môi trường sẽ giúp cho việc quy hoạch phát triển ở các ngành, các địa phương nhằm mục tiêu bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, bình ổn đất nước.
Về những nhiệm vụ cụ thể để phát triển nhanh, bền vững, Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Phát triển kinh tế nhanh và bền vững; tăng trưởng kinh tế cao hơn 5 năm trước trên cơ sở giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chú trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của các ngành, lĩnh vực; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế; xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tham gia có hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu”(2).
Tham chiếu trên thực tế sự đóng góp của hội nhập quốc tế đối với phát triển nhanh, bền vững của Việt Nam, có thể nhận rõ trên mấy khía cạnh: Thứ nhất, hội nhập quốc tế, tham gia sự phân công, hợp tác quốc tế giúp nền kinh tế đất nước tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, xác định được vị trí của mình, trên cơ sở đó, tìm kiếm các giải pháp để “đi tắt, đón đầu” quá trình công nghiệp hóa, có điều kiện đi thẳng vào hiện đại hóa, từ đó rút ngắn khoảng cách về trình độ phát triển so với các nước khác. Thứ hai, hội nhập quốc tế thúc đẩy việc thu hút vốn, kỹ thuật từ bên ngoài nhằm làm tăng nguồn lực tổng thể, góp phần gia tăng đáng kể tăng trưởng GDP của đất nước. Tính chung tới nay, cả nước có 23.594 dự án FDI có hiệu lực với tổng số vốn đăng ký là 306,3 tỷ USD. Thứ ba, với việc hội nhập đầy đủ vào các thể chế kinh tế thế giới và khu vực sẽ tạo điều kiện để chia sẻ kinh nghiệm về quản lý, chiến lược đầu tư phát triển, giảm thiểu các rủi ro, góp phần tháo gỡ các khó khăn do các tác động tiêu cực từ bên ngoài, như khủng hoảng kinh tế, xu hướng bảo hộ. Thứ tư, hội nhập quốc tế tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư ra nước ngoài để thử sức cạnh tranh, nâng cao trình độ quản lý, chuyển giao khoa học - công nghệ. Thứ năm, hội nhập quốc tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu lao động để người lao động có điều kiện tiếp thu những phong cách làm việc, tổ chức sản xuất. Điều này không chỉ góp phần giải quyết việc làm, giảm thiểu thất nghiệp mà còn tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cũng như tăng thu nhập cho người lao động và tăng thu cho ngân sách. Thứ sáu, hội nhập quốc tế về văn hóa, giáo dục, khoa học - công nghệ giúp cho việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, góp phần làm chuyển biến tích cực đối với công tác giáo dục, y tế, quản lý xã hội; phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ môi trường... Tất cả những điều này trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội của đất nước.
Những kinh nghiệm bước đầu
Từ những kết quả thực hiện chủ trương chiến lược của Đảng về chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, có thể rút ra một số kinh nghiệm bước đầu.
Một là, khi tham gia hội nhập quốc tế, phải tính toán thận trọng những tác động và hậu quả lâu dài của quá trình toàn cầu hóa với việc phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Cần gắn kết chiến lược phát triển nhanh, bền vững cùng những bước đi cụ thể trong nước với những biến chuyển mau lẹ của nền kinh tế thế giới, sao cho các cam kết, thỏa thuận trong các khuôn khổ hợp tác song phương, tiểu khu vực, liên khu vực và toàn cầu được vận hành một cách hài hòa, không bị vênh hoặc mâu thuẫn nhau.
Hai là, để tránh gây ra những đảo lộn về xã hội, cần luôn luôn bảo đảm sự cân bằng hợp lý giữa các quan hệ: Quan hệ giữa đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế; quan hệ giữa chủ động, tích cực hội nhập quốc tế với việc giữ vững độc lập, tự chủ đất nước; quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ của đất nước trong các thể chế hội nhập, giữa mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với những yêu cầu, đòi hỏi của bên ngoài; giữa các vấn đề kinh tế, thương mại với các lĩnh vực khác. Cần kịp thời thích ứng, phản ứng linh hoạt, tạo lập và tăng cường khai thác lợi thế so sánh của đất nước để tham gia hội nhập. Xây dựng vững chắc nền kinh tế độc lập tự chủ, bảo vệ thị trường và môi trường trong nước.
Ba là, thống nhất nhận thức và hành động trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, tạo cho cán bộ, nhân dân sức đề kháng cao để đối phó với những mặt trái trong quá trình hội nhập. Tính toán kỹ từng lĩnh vực cụ thể cũng như phạm vi, mức độ hội nhập tùy theo điều kiện trong nước. Hội nhập nhưng phải giữ vững định hướng phát triển đất nước, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn giá trị truyền thống của dân tộc. Xác định rõ hội nhập là quá trình vừa có nhiều cơ hội, vừa gặp nhiều thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu tranh.
Bốn là, hội nhập quốc tế trong quá trình toàn cầu hóa chính là cơ sở khách quan của chính sách đối ngoại đúng đắn, kịp thời sẽ thúc đẩy hội nhập phát triển theo cả chiều rộng và chiều sâu. Tuy nhiên, phải coi hội nhập không phải là mục tiêu mà là phương tiện hữu hiệu để kết hợp có hiệu quả mọi nguồn lực trong nước và nguồn lực nước ngoài, mở rộng không gian và môi trường phát triển, nâng cao thế và lực của đất nước trên trường quốc tế./.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 154 - 155
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr. 77
GS, TS. Vũ Văn Hiền Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Nguồn http://www.tapchicongsan.org.vn
Lưu Văn Hiển (st)