Xét về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển là tư tưởng phát triển duy vật biện chứng. Nó là sự kết tinh những giá trị triết lý phát triển của truyền thống dân tộc, truyền thống phương Đông và phương Tây, nhất là nguyên lý phát triển của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác – Lê-nin. Nó được làm giàu, bồi đắp, nuôi dưỡng bởi kinh nghiệm thực tiễn đấu tranh cách mạng của dân tộc và của Hồ Chí Minh. Do vậy, tư tưởng phát triển của Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa tính khoa học, tính cách mạng và tính thực tiễn, được diễn đạt giản dị, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm theo.
Trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao. Trong hiện thực khách quan, tùy thuộc vào hình thức tồn tại cụ thể của các dạng vật chất, sự phát triển sẽ được thực hiện hết sức khác nhau trong tự nhiên, xã hội và trong tư duy của con người. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển, chúng ta chỉ xét trên khía cạnh xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển sẽ rõ ràng nhất trên khía cạnh này vì Người không những là một nhà tư tưởng mà còn là một nhà quản lý xã hội từng giữ cương vị cao nhất của Nhà nước Việt Nam. Quan điểm về phát triển trên lĩnh vực xã hội của Người không chỉ là hệ thống quan điểm toàn diện được xây dựng trên nền tảng thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, mà còn mang bản chất giai cấp, bảo vệ cho lợi ích của toàn dân tộc và đặc biệt là góp phần quan trọng soi sáng và chỉ đạo công tác thực tiễn của cách mạng Việt Nam.
Như vậy, nếu xét theo quan điểm biện chứng duy vật, phát triển trong lĩnh vực xã hội thì phát triển biểu hiện ở năng lực chinh phục tự nhiên, cải tạo xã hội để tiến tới mức độ ngày càng cao trong sự nghiệp giải phóng con người. Mà những nội dung này trong quan điểm của Người đã được thể hiện từ rất sớm, ngay từ khi còn là một thanh niên trên hành trình bôn ba tìm đường cứu nước. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển được thể hiện qua quan điểm của Người về con đường phát triển của dân tộc Việt Nam và quan điểm phát triển dân tộc theo định hướng phát triển bền vững.
- Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển thể hiện thông qua quan điểm của Người về con đường phát triển dân tộc Việt Nam
Hành trình tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh là một hành trình sống, lao động, học tập và tranh đấu để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đưa dân tộc Việt Nam đi lên CNXH.
Mục tiêu hàng đầu trong sự nghiệp đấu tranh của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc. Đây được coi là mục tiêu phát triển và cũng là nền tảng cho giai đoạn phát triển tiếp theo. Thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc cũng chính là thời kỳ đấu tranh giải phóng để phát triển.
Sau khi đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”của V.I.Lênin, Người đã có sự lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(1). Và kể từ đó, con đường này là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn đối với cách mạng Việt Nam. Dù có diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng đó vẫn là sự kiên trì mục tiêu sau khi giành độc lập sẽ xây dựng và phát triển đất nước theo CNXH. “Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(2). Lựa chọn được con đường đúng đắn nhưng để hiện thực hóa nó sẽ vô cùng khó khăn, gian khổ, hy sinh và mất mát. Chính vì vậy, ngay khi bước vào thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước thì đó cũng chính là bước vào thời kỳ đổi mới để phát triển.
Giải phóng mở đường cho phát triển. Muốn phát triển thì phải đổi mới. Phát triển của Việt Nam trong đổi mới sẽ được giải quyết từng bước rất lâu dài trong tính quy định lịch sử của tình hình mới, hoàn cảnh mới với nhận thức mới, tư duy mới (mở cửa, hội nhập, toàn cầu hóa, kinh tế thị trường, kinh tế tri thức, khoa học công nghệ, thông tin...). Nếu như trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng để phát triển chính là giải phóng khỏi ách áp bức, nô dịch của đế quốc thực dân để giành độc lập, thì trong thời kỳ xây dựng CNXH, thời kỳ hòa bình, xây dựng đất nước, giải phóng là giải phóng mọi tiềm năng của dân tộc và xã hội, bứt phá ra khỏi sự nghèo nàn, lạc hậu, tư duy trì trệ, chậm phát triển, kém phát triển.
Để thực hiện lý tưởng độc lập dân tộc gắn với CNXH, cũng chính là thực hiện con đường phát triển dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhân tố cơ bản như sau:
Lý tưởng và mục tiêu phát triển: Độc lập dân tộc, CNXH.
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là triết lý sống, triết lý hành động, là phương châm ứng xử của Người. Triết lý này được rút ra từ chiều sâu của triết lý truyền thống lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc cũng như từ thực tiễn hoạt động đấu tranh cách mạng của nhân dân và của bản thân Người.
Hồ Chí Minh nhận thức sâu sắc rằng, độc lập dân tộc phải gắn liền với CNXH thì độc lập dân tộc mới vững chắc. Nói cách khác, chỉ có lựa chọn con đường phát triển CNXH mới là con đường bảo vệ và phát triển vững chắc nhất thành quả của độc lập dân tộc, mới bảo đảm cho nhân dân thực sự được hạnh phúc, đồng bào thực sự được ấm no. Tất nhiên, độc lập dân tộc cũng là điều kiện, tiền đề, cơ sở để đi lên CNXH.
Nền tảng tư tưởng, lý luận cho sự phát triển: Chủ nghĩa Mác - Lê-nin.
Trên con đường phát triển dân tộc còn nhiều gian lao, thử thách, thăng trầm, nhất định phải có một lý luận cách mạng dẫn đường. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(3). Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường, quan điểm, phương pháp biện chứng của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin để giải quyết những vấn đề thực tiễn cách mạng Việt Nam, chứ không đi tìm những kết luận có sẵn trong sách vở.
Con đường và phương thức phát triển: Cách mạng vô sản, quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản, quá độ lên CNXH. Đây là quan niệm về hình thái quá độ gián tiếp, cụ thể - quá độ từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên CNXH.
Lực lượng thực hiện phát triển: Giai cấp công nhân, liên minh giữa công nhân với nông dân, công - nông là gốc cách mạng, cùng với toàn dân được tập hợp dưới ngọn cờ đoàn kết, cứu nước, giải phóng để phát triển.
Lực lượng lãnh đạo để phát triển: Đảng cách mạng, đội tiên phong của giai cấp, của dân tộc. Sức mạnh to lớn của nhân dân chỉ được phát huy khi được tập hợp, đoàn kết và được lãnh đạo bởi một tổ chức chính trị là Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đối tượng đánh đổ để phát triển: Tùy vào từng thời kỳ cách mạng khác nhau thì mục tiêu và đối tượng cách mạng cũng khác nhau, tuy nhiên, đối tượng cách mạng cần phải đánh đổ để thực hiện sự phát triển chính là bè lũ đế quốc thực dân và tay sai bán nước phản bội lại quyền lợi của dân tộc.
Động lực cho sự phát triển: Động lực đầu tiên quan trọng đối với sự phát triển của đất nước là đoàn kết dân tộc, sau đó là phát huy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước chân chính, sự lãnh đạo của Đảng... Tuy nhiên, xét cho đến cùng, động lực cho sự phát triển chính là yếu tố con người. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển dân tộc.
Phương pháp và phương thức cách mạng cho sự phát triển, điều kiện cho cách mạng thành công: Phải chủ động, phải “đem sức ta mà giải phóng cho ta”, phải đặt cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, phải thực hiện đoàn kết dân tộc gắn liền với đoàn kết quốc tế, chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế, sức mạnh dân tộc gắn liền với sức mạnh thời đại.
Thứ hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển thể hiện qua định hướng phát triển bền vững
Vào những năm giữa thế kỷ XX, tuy trong cách diễn đạt của Hồ Chí Minh chưa có thuật ngữ “phát triển bền vững” nhưng có thể thấy với trí tuệ, tầm nhìn thời đại, những quan niệm của Người về kinh tế, xã hội, môi trường, xét đến cùng chính là phát triển bền vững. Phát triển bền vững được xem là xu thế tất yếu trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Phát triển bền vững phải là sự phát triển đồng bộ trên tất cả các mặt kinh tế - xã hội, môi trường; phát triển kinh tế - xã hội gắn với bảo vệ môi trường.
Về kinh tế - xã hội: Nét đặc sắc trong tư tưởng của Người về kinh tế là luôn đặt những vấn đề kinh tế trong mối quan hệ chặt chẽ với những vấn đề chính trị, xã hội. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, chính sách “kháng chiến” với “kiến quốc” chính là mối quan hệ giữa chính trị và kinh tế, độc lập dân tộc với CNXH. Người cho rằng: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được nghỉ... Tóm lại xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt...”(4). Từ đó, Người đã lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân đẩy mạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, tiến hành hợp tác hóa để huy động sức mạnh toàn dân vào xây dựng nền kinh tế mới; cải tạo quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, từng bước công nghiệp hóa, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH. Hạt nhân phát triển xã hội vững mạnh là xây dựng một nền kinh tế do nhân dân lao động làm chủ để phát triển các lĩnh vực khác của toàn xã hội.
Người đặc biệt chú trọng chỉ đạo phát triển kinh tế vùng núi, hải đảo, vừa tạo điều kiện không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống đồng bào, vừa bảo đảm an ninh, quốc phòng cho đất nước. Một xã hội công bằng, hợp lý là một trong bốn đặc trưng lớn mà nền kinh tế XHCN ở Việt Nam hướng tới. Xuyên suốt trong quan điểm về phát triển kinh tế của Người chính là quan điểm kinh tế gắn với xã hội, kinh tế phát triển nhưng xã hội phải ổn định, công bằng giữa miền ngược với miền xuôi, đồng bằng và miền núi, người giàu với người nghèo. Người từng nói “không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng”, kinh tế phát triển để bảo đảm cho mọi người dân đều được đáp ứng các nhu cầu về y tế, giáo dục, văn hóa tinh thần. Những nội dung về phát triển kinh tế - xã hội theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: Phát triển kinh tế lấy con người làm trung tâm cho sự phát triển, “dân làm chủ”, “mọi quyền hành, mọi lực lượng đều ở nơi dân”; phát triển kinh tế để bảo đảm cho mọi người dân đều được hưởng thụ các giá trị phúc lợi xã hội, xóa đói giảm nghèo: “Dân giàu nước mạnh”, từng bước xóa bỏ bất công, xóa bỏ bóc lột… trên cơ sở phát triển sản xuất, dần dần “biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước có công nghiệp hiện đại”(5), nông nghiệp hiện đại, khoa học tiên tiến; gắn phát triển kinh tế với chính sách xã hội, với công bằng xã hội, “các dân tộc miền núi tiến kịp các dân tộc miền xuôi”... cũng chính là những nội dung lớn mà nhân loại tiến bộ đang hướng tới trong chiến lược phát triển bền vững hiện nay.
Về tự nhiên (môi trường): Môi trường tự nhiên trong tư tưởng, tình cảm của Người không phải là cái gì khác xa lạ, cũng không phải chỉ là đối tượng để cải tạo, chinh phục, mà còn là một bộ phận quan trọng của cuộc sống con người, có mối quan hệ khăng khít với cuộc sống con người, đó là: đất, nước, không khí, rừng, tài nguyên thiên nhiên... Vì vậy, gắn bó, trân trọng những gì thuộc về tự nhiên cũng chính là cơ sở để hình thành tư tưởng về bảo vệ tài nguyên, môi trường hướng đến phát triển bền vững.
Người thường nhắc lại câu tục ngữ của ông cha ta và căn dặn: “Ta thường nói: “Rừng vàng biển bạc”. Rừng là vàng nếu mình biết bảo vệ xây dựng thì rừng rất quý”(6). Đánh giá cao vai trò, tác dụng của tài nguyên thiên nhiên, của rừng với đời sống con người, đồng thời Người cũng yêu cầu phải biết khai thác đúng mức, khai thác kết hợp bảo tồn, xây dựng để rừng thực sự là “vàng”, để không “mang vàng đổ xuống sông”.
Mối quan hệ giữa kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm phát triển bền vững: Chủ tịch Hồ Chí Minh rất nhiều lần nhắc đến “Thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trong đó “thiên thời, địa lợi” là những cái con người có thể tranh thủ được, nếu cùng lúc mà có được là điều tốt nhất nhưng yếu tố giữ vai trò quyết định vẫn là “nhân hòa”. Trong mối quan hệ giữa con người - tự nhiên - môi trường thì con người vẫn là chủ thể giữ vai trò quyết định. Tự nhiên có tác động mạnh mẽ tới mọi mặt hoạt động của con người và xã hội, song sự tác động ấy hoàn toàn mang tính chất tự phát. Trong quá trình phát triển, hoạt động của con người chính là các hoạt động kinh tế - xã hội, nếu con người hiểu biết và tác động cùng chiều với quy luật của tự nhiên, khai thác, sử dụng và tái tạo hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên sẽ bảo đảm cho sự phát triển bền vững trong tương lai.
Thứ ba, thiết lập quan hệ đối tác toàn cầu vì phát triển
Ngay từ những ngày đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở cho việc thiết lập quan hệ toàn cầu. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 29-9-1945, Người đã có Thư gửi Tổng thống Hoa Kỳ, khẳng định Việt Nam có đủ điều kiện cử đại diện vào Ủy ban tư vấn đối với khu vực Viễn Đông.
Ngày 16-7-1947, khi trả lời một nhà báo nước ngoài, Hồ Chí Minh khẳng định rất hoan nghênh tư bản Pháp và tư bản các nước khác thật thà cộng tác để điều hòa kinh tế thế giới và giữ gìn hòa bình. Tháng 3-1949, trả lời một nhà báo, Người nói rõ chủ trương mở rộng quan hệ quốc tế sau khi hòa bình lập lại: Việt Nam sẽ đứng với tất cả các nước bầu bạn. Về ngoại thương, Việt Nam sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thật thà. Trả lời phỏng vấn của báo Tribune (ngày 20-4-1949), Người khẳng định Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em, bầu bạn. Khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh khẳng định chúng ta đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn. Chúng ta sẽ dựa theo 5 nguyên tắc lớn của bản tuyên bố Trung - Ấn và Trung - Diến để gây quan hệ hữu hảo với hai Chính phủ nhà vua Miên và Lào, đoàn kết với nhân dân Pháp và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới.
Khi đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược chiến tranh cục bộ ở miền Nam và gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc, trong buổi tiếp Giáo sư luật học La Para, phái viên của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Italia, Hồ Chí Minh nêu quan điểm sẵn sàng trải thảm đỏ và rắc hoa cho Mỹ rút. Nội dung này được Người nhắc lại một lần nữa khi tiếp Xanhtơny, phái viên của Tổng thống Pháp ngày 05-7-1966. Tại buổi tiếp đoàn đại biểu của Tòa án Quốc tế sang Việt Nam điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ (1-1967), Hồ Chí Minh nhấn mạnh sẵn sàng hoan nghênh nhân dân Mỹ không phải khi họ đến như hiện nay với những người lính mang vũ khí - nhưng khi họ đến một lần nữa trong tương lai để giúp đỡ xây dựng đất nước Việt Nam.
- Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển
Một là, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển soi đường cho Đảng và nhân dân Việt Nam trên con đường thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường phát triển dân tộc Việt Nam cũng chính là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH.
Chính nhờ tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển dân tộc Việt Nam và sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, nên chúng ta đã giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, đặc biệt là những thành tựu to lớn trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã được Đảng ta quán triệt và triển khai từ Đại hội VII đến nay, thể hiện sự phát triển trong tư duy lý luận, ngày càng sâu sắc, toàn diện hơn. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH không chỉ thể hiện ở đường lối chính trị mà thấm sâu vào trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, lý luận, tư tưởng, nhằm xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh, vững bước tiến lên CNXH. Đó cũng chính là mong ước của Người vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển góp phần định hướng mục tiêu phát triển bền vững cho Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế.
Hiện nay, bên cạnh những thành tựu rực rỡ về khoa học công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ của các nền kinh tế, loài người cũng đang phải đối mặt với những thách thức lớn lao về chính trị, văn hóa, xã hội và đặc biệt là môi trường. Hàng loạt các vấn đề về môi trường, như: Biến đổi khí hậu, thoái hóa đa dạng sinh học, ô nhiễm các chất hữu cơ độc hại, khó phân hủy... đang ngày càng gia tăng đe dọa trực tiếp tới sự tồn tại của nhân loại, buộc cộng đồng thế giới phải chuyển từ chiến lược phát triển lấy sự tăng trưởng kinh tế là trọng tâm sang chiến lược phát triển bền vững.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sống trong thời đại mà sự phát triển kinh tế - xã hội chưa đặt ra những yêu cầu cấp bách về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, với tầm nhìn chiến lược, Hồ Chí Minh đã có những tư tưởng có giá trị sâu sắc về vấn đề này. Trong cách diễn đạt của Người, tuy không trực tiếp đề cập đến thuật ngữ “phát triển bền vững” như hiện nay nhưng những nội dung, mục tiêu, nguyên tắc, mối quan hệ giữa các nhân tố trong phát triển bền vững đều đã được Người đề cập đến từ rất sớm, thậm chí có những dự báo hết sức chính xác, toàn diện, hệ thống về những nội dung liên quan đến phát triển bền vững. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, phát triển kinh tế lấy con người làm trung tâm, phát triển kinh tế là cơ sở bảo đảm công bằng xã hội, tiến bộ về văn hóa. Nhưng phát triển kinh tế không “đánh đổi” bằng mọi giá, sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước sau chiến tranh cần khai thác tài nguyên thiên nhiên nhưng khai thác cần có kế hoạch, gắn liền với sử dụng tiết kiệm, hợp lý và bảo vệ tài nguyên môi trường.
Nhận thức rõ tác động của biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường và trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển bền vững, Đảng, Nhà nước đã cụ thể hóa bằng các văn kiện Đảng qua các kỳ Đại hội. Đặc biệt, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết 24 về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường; Chính phủ đã ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo vệ tài nguyên môi trường. Bên cạnh đó, các bộ, ngành, địa phương đã và đang xây dựng kế hoạch hành động để ứng phó với biến đổi khí hậu hướng đến phát triển bền vững. Đại hội XII của Đảng khẳng định quyết tâm: “Phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại”(7); “tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường; chủ động phòng chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu”(8). Đây chính là minh chứng cho việc Đảng ta tiếp tục kế thừa, vận dụng di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, chung sức cùng nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới thực hiện phát triển bền vững.
PGS, TS Phạm Ngọc Anh
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS Hoàng Diệu Thảo
Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội
Hà Minh (st)
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 10-2017
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.30.
(2) Sđd, t.1, tr.496.
(3) Sđd, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, tr.289.
(4) Sđd, t.13, tr.438.
(5) Sđd, t.11, tr.92.
(6) Sđd, t.14, tr.165.
(7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, tr.21, 139.