Nghiên cứu, quán triệt và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân sẽ làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh - Nguồn: bqllang.gov.vn
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, bộ máy Nhà nước. Theo Người, chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng là một nội dung liên quan trực tiếp tới vận mệnh của Đảng, chất lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước và quyết định đến sự thành, bại của sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Do vậy, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, vừa là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của cán bộ, công chức, của toàn Đảng, toàn dân hiện nay.
Chủ nghĩa cá nhân có tính chất đặc biệt nguy hại, luôn là vấn đề mà Chủ tịch Hồ Chí Minh phải trăn trở, suy nghĩ và tìm nhiều biện pháp kiên quyết phòng, chống. Từ tác phẩm Đường Kách mệnh (năm 1927) đến tác phẩm Di chúc và khoảng gần 200 bài nói, viết về công tác xây dựng Đảng, về rèn luyện, giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên,… tất cả đều thể hiện hệ thống những quan điểm, biện pháp hữu hiệu của Người về chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao uy tín, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.
Chủ nghĩa cá nhân và sự cần thiết phải chống chủ nghĩa cá nhân
Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng thuật ngữ chủ nghĩa cá nhân từ năm 1947 trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Người chỉ rõ: “Chủ nghĩa cá nhân là như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”(1). Năm 1969, trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, diện mạo của chủ nghĩa cá nhân được Bác chỉ ra tương đối toàn diện và cụ thể.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, bên cạnh những cán bộ, đảng viên hăng hái, dũng cảm trong công tác vẫn còn một số ít cán bộ, đảng viên đạo đức, phẩm chất còn thấp kém, mang nặng “chủ nghĩa cá nhân”, việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”(2). Theo Người, cái gì không phải chủ nghĩa xã hội là cá nhân chủ nghĩa; chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của cách mạng, nó là nguồn gốc của những căn bệnh làm hư hỏng đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm tha hóa Đảng. Chủ nghĩa cá nhân là “trái ngược với đạo đức cách mạng… là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt; nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc”(3). Đây là sự nguy hiểm tiềm tàng làm cho Đảng mất dần tính cách mạng, tính trí tuệ, tính đạo đức, tính nhân dân… Chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân, cách mạng còn gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, chống chủ nghĩa cá nhân là việc làm cần thiết, thường xuyên của những người cộng sản chân chính. Người cho rằng, mỗi cán bộ, đảng viên không phải cứ viết trên trán mình hai chữ “cộng sản” là được nhân dân yêu mến, mà phải thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện và thực hành đạo đức cách mạng, chống sa vào chủ nghĩa cá nhân, góp phần làm cho Đảng ta thật sự “là đạo đức, là văn minh”.
Chủ nghĩa cá nhân là “địch nội xâm”, vô cùng nguy hiểm, một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng, của đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra. Vì vậy, ta phải hết sức đề phòng những kẻ địch đó”(4). Do đó, Người nêu lên nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên phải kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng, cho dù cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân là cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ bằng nhiều hình thức phong phú gắn với những điều kiện về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Cuộc đấu tranh đó không kém cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù ngoại xâm, có khi còn khó khăn hơn, bởi lẽ, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù không lộ nguyên hình, nó ẩn nấp tinh vi trong tư tưởng, suy nghĩ và hành vi của mỗi cá nhân đó. Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân.
Biểu hiện và những hậu quả do chủ nghĩa cá nhân gây ra
Chủ nghĩa cá nhân xuất hiện ở mọi giai đoạn, tồn tại cả trong thời chiến lẫn thời bình. Chủ nghĩa cá nhân thay đổi cách thức tồn tại tùy theo điều kiện quản lý xã hội, chỉ khi ý chí chính trị cao, thống nhất trong hệ thống; các quy định trong hệ thống pháp lý khoa học, chặt chẽ; các phương pháp quản lý, điều hành minh bạch thì chủ nghĩa cá nhân mới bị thu hẹp, đẩy lùi, ngược lại thì nó nảy nở, lây lan. Chủ nghĩa cá nhân với những biểu hiện đa dạng, luôn biến hóa khôn lường, “muôn hình vạn trạng”, bởi thế, có nhiều người mơ hồ cho rằng đó là căn bệnh người khác mắc phải, còn mình thì không.
Trong tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra các loại bệnh nảy sinh từ chủ nghĩa cá nhân cần nhận diện và phòng chống, đó là: Bệnh quan liêu; bệnh tham lam; bệnh lười biếng; bệnh kiêu ngạo; bệnh hiếu danh; bệnh “hữu danh vô thực” (loại bệnh có biểu hiện là làm được ít nhưng báo cáo, khoe khoang thì nhiều); bệnh cận thị (loại bệnh có biểu hiện là chỉ để ý đến cái nhỏ, vụn vặt, không thấy cái lớn, cái quan trọng); bệnh tị nạnh; bệnh xu nịnh, a dua và bệnh kéo bè, kéo cánh… Chủ nghĩa cá nhân biểu hiện trong nhiều lĩnh vực: Trong công việc, hoạt động lãnh đạo và quản lý; trong sinh hoạt; trong quan hệ với quần chúng nhân dân; trong thực hiện kỷ luật, chế độ công tác. Từ đó, dẫn đến nhiều hậu họa và sai lầm nghiêm trọng, trở thành nguy cơ của Đảng cầm quyền.
Sự nguy hại của chủ nghĩa cá nhân được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(5). Người cho rằng, chừng nào còn chủ nghĩa cá nhân nó sẽ “ngăn trở” người cán bộ, đảng viên phấn đấu vì mục tiêu, lý tưởng của Đảng, của dân tộc, làm mất lòng tin cậy của dân với Đảng. Xét đến cùng dẫn tới sự suy thoái, biến chất, làm giảm sức chiến đấu trong Đảng đó chính là chủ nghĩa cá nhân: “Do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đúng đường lối, chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân” và cũng “do cá nhân chủ nghĩa mà ngại gian khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao, tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ xa rời quần chúng, xa rời thực tế, mắc bệnh quan liêu mệnh lệnh. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”(6).
Ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, chủ nghĩa cá nhân biểu hiện dưới nhiều hình thức hết sức tinh vi, nhưng thường thể hiện trước hết ở lối sống buông thả, hưởng thụ, vì lợi ích cá nhân vị kỷ, tìm mọi cách, bằng mọi giá thực hiện cho bằng được ý đồ cá nhân, coi tập thể, tổ chức, coi sự thành bại của công việc ở dưới lợi ích cá nhân. Tiếp đó là tác phong hách dịch, độc đoán trong sinh hoạt và điều hành, nhất là của người đứng đầu. Hách dịch, độc đoán không đơn giản chỉ thể hiện ở thái độ nóng nảy, quát nạt mà còn ở cả sự khôn khéo, tinh vi hơn, ở những lời mềm dẻo, nhũn nhặn, thậm chí là “sẵn sàng lắng nghe”, nhưng quyết định ngược lại. Tác phong độc đoán bao giờ cũng gây tai hại cho tổ chức nhưng có lợi cho cá nhân. Sau hách dịch, độc đoán là bệnh bè phái, lợi ích nhóm, gây mất đoàn kết... Bè phái là hiện tượng mang tính tiêu cực xét theo nguồn gốc, động cơ hình thành, bởi đó là kết quả của sự cấu kết của một nhóm người trong tổ chức với mục đích chi phối nhận thức và hành vi của tổ chức, đem lại lợi ích cho một nhóm người, bất chấp sự nguy hại đến tập thể, đến lợi ích chính đáng của tổ chức, cộng đồng...
Do tác động của kinh tế thị trường, lối sống vị tiền dần phổ biến trong xã hội đã khiến một bộ phận cán bộ, công chức tìm mọi cách để kiếm tiền, tham ô, tham nhũng rồi dùng đồng tiền để hối lộ, chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy tuổi, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng,... để chi phối các quan hệ khác. Trong những năm qua, những biểu hiện trên không giảm đi mà ngày càng có xu hướng gia tăng và tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng này không chỉ tiếp tay cho các thế lực thù địch đẩy mạnh âm mưu “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ mà còn trực tiếp gây chia rẽ, mất đoàn kết trong Đảng, giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Thực tế cho thấy, ở những người có chức vụ, quyền hạn thấp, chỉ có một hoặc một số biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, hậu quả gây ra cũng vừa phải, mức độ ảnh hưởng không lớn. Nhưng càng ở những người có chức vụ cao, quyền hạn lớn, khi sa vào chủ nghĩa cá nhân lại có nhiều hành vi gây hậu quả khó lường, thậm chí làm lũng đoạn cả một tổ chức, gây cản trở sự phát triển chung của đất nước. Các biểu hiện, hành động của người có tư tưởng chủ nghĩa cá nhân đều liên quan đến nhau, là tiền đề và hệ quả của nhau.
Phòng, chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố vững chắc niềm tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng
Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng, về hy sinh hết thảy chủ nghĩa cá nhân vì lợi ích của Đảng, của dân tộc. Người luôn mong mỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, Đảng không có lợi ích gì khác. Do đó, Người nhấn mạnh: “Mỗi người trong Đảng phải hiểu rằng: Lợi ích của cá nhân nhất định phải phục tùng lợi ích của Đảng. Lợi ích của mỗi bộ phận nhất định phải phục tùng lợi ích của toàn thể. Lợi ích tạm thời nhất định phải phục tùng lợi ích lâu dài. Nghĩa là phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, lên trước hết. Vì lợi ích của Đảng tức là lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc. Vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng”(7).
Người chỉ rõ mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn học tập để nâng cao và thấm nhuần đạo đức cách mạng, không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn, trình độ lý luận để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới đặt ra và xem đây như là biện pháp để chống chủ nghĩa cá nhân. Người khẳng định: “Muốn giữ vững nhân cách, tránh khỏi hủ hóa, thì phải luôn thực hành 4 chữ, đó là: Cần, Kiệm, Liêm, Chính” và trong xã hội mới “ai cũng có thể vươn tới đỉnh cao của đạo đức cách mạng”. Thực hiện nâng cao dân trí, phát huy quyền dân chủ thực sự và rộng rãi, tăng cường mối liên hệ mật thiết, chặt chẽ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Đây là nội dung quan trọng tác động trực tiếp đến nhận thức và hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Do thiếu hiểu biết nên nhân dân không có khả năng thực hành với tư cách của người làm chủ. Ngược lại, nếu họ hiểu biết nắm vững được pháp luật, nắm vững quyền làm chủ của mình, họ sẽ đấu tranh, bảo vệ quyền làm chủ của mình”. Người khẳng định, phong trào chống tham ô, lãng phí quan liêu, ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công. Đây là cách hiệu quả nhất để phòng chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức lối sống của cán bộ, đảng viên.
Cần phát huy và thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt Đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ, thường xuyên đấu tranh tự phê bình và phê bình. Đây là vũ khí sắc bén và rất cần thiết để chống chủ nghĩa cá nhân trong Đảng, trong các cơ quan nhà nước. Người cho rằng, trong tự phê bình và phê bình phải thực hiện một cách thường xuyên, nghiêm túc, đặt lợi ích của Đảng, của cách mạng, của nhân dân lên trên hết, trước hết; tự phê bình và phê bình có lý, có tình, trên tinh thần thương yêu đồng chí, tôn trọng nhân cách của mỗi con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần phải có thái độ đúng đắn, nghiêm túc và giải quyết một cách hợp tình, hợp lý đối với những người mắc phải chủ nghĩa cá nhân, hủ hóa, suy thoái. Người cho rằng, “tệ nhất là trong hàng ngũ cán bộ có một số ít đã tham ô, hủ hóa… Cán bộ nào mà tham ô, hủ hóa là có tội to với Đảng và Chính phủ, có tội to với nhân dân và có tội to cả với anh chị em cán bộ khác”. Họ làm hại danh dự của Đảng, của Chính phủ, của tất cả các cán bộ, vì vậy, Đảng phải có trách nhiệm gột rửa cho những đồng chí mắc bệnh hủ hóa và Đảng cũng cần phải “luôn luôn tẩy bỏ những phần tử hủ hóa ra ngoài”. Theo Người, ai đã mắc bệnh hủ hóa, phải hết sức kiên quyết sửa chữa, nếu không tự sửa chữa, Chính phủ sẽ không khoan dung, ngược lại, cất nhắc những người hăng hái để thay thế cho những người cũ bị đào thải hoặc vì tài không xứng chức, hoặc hủ hóa.
Thực hiện những lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng nhiều lần tổ chức chỉnh huấn nhằm tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Trong công cuộc đổi mới, Đại hội VI (tháng 12-1986) là bước đột phá về xây dựng Đảng với tư duy mới, phong cách lãnh đạo mới. Đại hội Đảng các khóa đều nhấn mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Công cuộc đổi mới ngày càng phát triển với những thành tựu to lớn, công tác xây dựng Đảng có những thành công quan trọng nhưng cũng còn nhiều hạn chế, yếu kém; thậm chí có nhiều yếu kém, khuyết điểm kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ. Trước yêu cầu mới, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XI (tháng 11-2012) ban hành Nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, trong đó vấn đề hàng đầu là kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Vì thế, việc cán bộ, đảng viên tự tu dưỡng, rèn luyện, học tập vì lương tâm, danh dự, trách nhiệm của người cộng sản có ý nghĩa rất quan trọng, căn bản và bền vững đối với nhiệm vụ xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Gần 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI và gần 1 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII, Đảng đã xử lý kỷ luật 74.000 cán bộ, đảng viên với các hình thức kỷ luật của Đảng và cả xử lý bằng pháp luật của Nhà nước. Hội nghị Trung ương 4 Khóa XII (tháng 10-2016) ban hành Nghị quyết về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII là sự tiếp nối nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đề ra trước đây, đồng thời phản ánh yêu cầu bức thiết hiện nay cần phải nhận thức rõ, quyết tâm chính trị cao, hành động mạnh mẽ, giải pháp đồng bộ để tạo ra sự chuyển biến căn bản, vững chắc với hiệu quả thiết thực. Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII đã nhận diện những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đề ra mục tiêu, quan điểm và các nhóm nhiệm vụ, giải pháp.
Nước ta đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bên cạnh những thuận lợi còn chịu sự chi phối từ mặt trái của cơ chế thị trường, từ những tiêu cực nảy sinh trong quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Do đó, chủ nghĩa cá nhân có điều kiện phát triển với những biểu hiện phức tạp và ngày càng tinh vi. Chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, nhất là những người có chức quyền đang trở thành vấn đề bức xúc của toàn xã hội, nhưng chậm được phát hiện và ngăn chặn kịp thời, hoặc có ngăn chặn nhưng hiệu quả chưa cao. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu ý thức tu dưỡng, rèn luyện; ở một số cấp ủy, việc giáo dục đạo đức, lối sống còn bị xem nhẹ hoặc mang tính hình thức. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp. Do thoái hóa về ý thức hệ, lý tưởng chính trị, biến chất về đạo đức, lối sống, để cho chủ nghĩa cá nhân phát triển đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, gây trở ngại lớn đến sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Để chống chủ nghĩa cá nhân, chúng ta cần nhận thức, quán triệt một cách đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề này. Đảng và Nhà nước cần thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ bản, trong đó, chú trọng tăng cường công tác giáo dục chính trị, nâng cao nhận thức cho mỗi cán bộ, đảng viên về mục tiêu, lý tưởng cách mạng mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn. Tuyên truyền rộng rãi trong toàn Đảng, toàn dân về tác hại và những biểu hiện mới của chủ nghĩa cá nhân, từ đó nhận diện và có biện pháp ngăn chặn. Đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng lớp nhân dân. Xác định các tiêu chí về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên gắn với quán triệt Quy định về những điều đảng viên không được làm và chức trách, nhiệm vụ của từng người. Cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp cần có kế hoạch học tập thường xuyên, không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, tư cách đảng viên; khắc phục mọi biểu hiện trung bình chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, mơ hồ mất cảnh giác, giảm sút ý chí chiến đấu và những biểu hiện sa sút về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Giữ vững các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình cả hai chiều từ trên xuống và từ dưới lên, phát huy sự gương mẫu của người đứng đầu.
Chỉ thị của Bộ Chính trị về việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4 (Khóa XI) xác định, các tổ chức đảng khi tiến hành tự phê bình và phê bình phải nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nhất là những mặt còn yếu kém, không nể nang, né tránh; đề ra các biện pháp khắc phục, sửa chữa thiết thực, khả thi; kết hợp “chống và xây”, “xây và chống”, nói đi đôi với làm, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc, trì trệ nhất hiện nay. Quá trình tiến hành kiểm điểm phải bảo đảm thật sự dân chủ, nghiêm túc, thẳng thắn với tinh thần xây dựng, đúng yêu cầu, nội dung, cách làm, thời gian mà Trung ương, Bộ Chính trị đã đề ra. Cấp trên phải làm gương tự phê bình trước, cấp dưới làm sau; tập thể làm trước, cá nhân làm sau; các đồng chí trong thường vụ, cấp ủy viên cấp trên gương mẫu, nghiêm túc tự phê bình và phê bình, làm gương cho cấp dưới. Toàn Đảng, toàn dân, các cấp, các ngành phải không ngừng giáo dục nhân dân, nâng cao dân trí, phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, có cơ chế để nhân dân tham gia vào công tác xây dựng Đảng. Đây là giải pháp vừa mang tính cấp bách, vừa mang tính lâu dài của công tác xây dựng Đảng, cũng như trong việc phòng chống chủ nghĩa cá nhân, tình trạng suy thoái đạo đức của cán bộ, đảng viên hiện nay. Đồng thời, phát huy vai trò giám sát của nhân dân, của các phương tiện thông tin đại chúng đối với việc rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; có cơ chế khen thưởng những cá nhân, cơ quan báo chí đã tích cực đấu tranh, phê phán những hành động sai trái. Qua đó, góp phần phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, phòng chống những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân./.
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t.5, tr. 295
(2) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 546
(3) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 602
(4) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 278, 279
(5) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 672
(6) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 15, tr. 547
(7) Hồ Chí Minh Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 290 - 291
- TS. Dương Minh Huệ
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
ThS. Phạm Quỳnh Trang
Học viện Chính trị Khu vực I
Nguồn http://www.tapchicongsan.org.vn
Trần Thanh Huyền (st)