Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong bối cảnh đó, yêu cầu, nhiệm vụ tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được đặt ra rất cấp bách. Nghị quyết Đại hội lần thứ XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị...”(1). Bài viết tập trung làm rõ tác động của xu thế hội nhập và phát triển đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đề xuất những phương hướng tiếp tục hoàn thiện mô hình này theo hướng đáp ứng tốt hơn với xu thế mới.
- Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khoá VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ Khóa VII của Đảng (năm 1994) cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và Nhà nước. Tại Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Xuất phát từ bản chất là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có 5 đặc điểm cơ bản sau:
Một là, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Hai là, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, mọi chủ thể trong xã hội đều phải tôn trọng và nghiêm chỉnh thực hiện pháp luật mà Hiến pháp là đạo luật tối cao, bộ luật gốc mang tính nền tảng.
Ba là, khẳng định và bảo vệ quyền con người, quyền công dân, tôn trọng sự bình đẳng của mọi cá nhân và thể nhân trong thụ hưởng và phát triển quyền, không có sự phân biệt đối xử, trước tiên và chủ yếu trong việc tham gia vào công tác quản lý nhà nước và xã hội.
Bốn là, sự cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hiến định trong các Hiến pháp trước đây và tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.
Năm là, bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân. Quyền và nghĩa vụ của tất cả mọi người, mọi công dân và của mỗi người, mỗi công dân được pháp luật và các chủ thể trong xã hội, đặc biệt là Nhà nước thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm thực hiện và thúc đẩy trong khuôn khổ luật pháp.
Như vậy, có thể nhận thấy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa mang những đặc điểm của Nhà nước pháp quyền nói chung, nhất là tính thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, vừa có những đặc thù của riêng Việt Nam, được nhấn mạnh ở ba điểm chính sau:
Thứ nhất, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, cơ sở xã hội của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện bảo đảm ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển.
Ba là, tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, thách thức từ việc thiếu cơ chế cạnh tranh, kiểm soát quyền lực của Đảng đặt ra yêu cầu phải xác định rõ nội hàm và phân định rõ chức năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị.
- Xu thế hội nhập, phát triển - cơ hội và thách thức đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
Trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ở phần “Mục tiêu tổng quát, các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm trong 5 năm 2016 - 2020”, Đảng ta đã nhận định: “Năm năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh. Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á đã trở thành một cộng đồng, tiếp tục là trung tâm phát triển năng động, có vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược ngày càng quan trọng; đồng thời, đây cũng là khu vực cạnh tranh chiến lược giữa một số nước lớn, có nhiều nhân tố bất ổn; tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo trong khu vực và trên Biển Đông còn diễn ra gay gắt”(2). Những nhận định được chỉ ra trong Nghị quyết Đại hội Đảng cho thấy, xu thế hội nhập và phát triển hiện nay bên cạnh những thuận lợi cơ bản cũng đặt ra những thách thức to lớn, nếu vượt qua được thì sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta mới thành công. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và phát triển cũng cần tính đến những đặc thù và tác động của tình hình thực tế ấy. Quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có những cơ hội như:
Một là, khẳng định tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh hội nhập và phát triển. Nhà nước pháp quyền với những giá trị đã được kiểm chứng về tổ chức bộ máy và kỹ thuật vận hành là một thành tựu mà nhân loại đạt được, đặc biệt dưới chế độ tư bản chủ nghĩa. Khi đã là một giá trị của nhân loại thì mọi quốc gia đều cần hướng tới và có quyền được sử dụng thành tựu chung ấy của loài người cho phù hợp với điều kiện riêng của quốc gia mình. Xu thế hội nhập và phát triển không chỉ giúp Việt Nam nhận thức sâu sắc hơn tính tất yếu khách quan ấy mà còn giúp có thêm cơ hội để tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với những nét đặc thù.
Hai là, bối cảnh hội nhập và phát triển đưa Việt Nam ngày càng gần hơn với thế giới, học tập kinh nghiệm về tổ chức, kỹ thuật vận hành bộ máy nhà nước của các nước phát triển để hoàn thiện hơn mô hình Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển đưa các quốc gia đến gần nhau hơn, khoảng cách về không gian, địa lý gần như không còn là rào cản. Chính điều này giúp cho các giá trị toàn cầu có điều kiện lan tỏa sâu rộng hơn. Trong xu thế đó, Việt Nam có cơ hội để tiếp cận những giá trị nhân loại, có điều kiện để tham khảo các mô hình, học hỏi kinh nghiệm từ thực tiễn các quốc gia, trong đó có mô hình, kinh nghiệm xây dựng Nhà nước pháp quyền thành công ở các nước phát triển. Đó cũng là cơ hội để Việt Nam nhìn nhận lại và hoàn thiện hơn mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà mình đã lựa chọn và đang xây dựng.
Ba là, bối cảnh hội nhập và phát triển tạo ra áp lực, nhưng đồng thời chính là động lực để Việt Nam quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bối cảnh mới tạo ra những áp lực lớn cho Đảng, Chính phủ và nhân dân trong hành trình vươn tới những giá trị nhân loại, rút dần khoảng cách với các quốc gia phát triển trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, khi đã nhận thức được toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển là xu thế tất yếu, xác định được đúng vị trí và điểm đứng của mình, sẽ là động lực giúp Việt Nam bứt phá và tự khẳng định mình trên trường quốc tế.
Bốn là, sự ủng hộ, giúp đỡ, động viên về vật chất và tinh thần của các Chính phủ, các tổ chức quốc tế, các lực lượng tiến bộ trên thế giới đối với Việt Nam. Dù là trong các cuộc chiến tranh dựng nước và giữ nước vĩ đại, hay trong bối cảnh xây dựng và phát triển đất nước với xu thế toàn cầu hóa và hội nhập như hiện nay, Việt Nam vẫn luôn xây dựng và thể hiện đậm nét hình ảnh một quốc gia thân thiện, yêu chuộng hoà bình, cầu thị và thiện chí phát triển. Đó cũng là lý do Việt Nam luôn nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ nhiệt tình, đắc lực và có hiệu quả cả về vật chất và tinh thần từ bạn bè quốc tế. Điều này vẫn có ý nghĩa to lớn trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
Bên cạnh những cơ hội, quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam cũng phải đối mặt với không ít thách thức như:
Một là, áp lực trong việc phải khẳng định cơ sở khoa học và thực tiễn của mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhất là làm rõ hơn đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng. Nhà nước pháp quyền là một giá trị phổ biến của phương Tây hiện đại. Nhưng mô hình chúng ta lựa chọn là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, ngoài những đặc trưng chung của Nhà nước pháp quyền nói chung, còn có những đặc thù của Việt Nam. Những khó khăn, thách thức gặp phải trong quá trình xây dựng và hoàn thiện mô hình này đặt ra yêu cầu ngày càng cấp bách đối với việc phải có nhận thức một cách sâu sắc, toàn diện để làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của mô hình này.
Hai là, sự chống phá công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam của các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước. Xây dựng Nhà nước pháp quyền trong bối cảnh có những đặc thù đã là một thách thức, nhưng khó khăn hơn là chúng ta luôn phải đối mặt với sự chống phá hoặc ngấm ngầm, hoặc trực diện từ các thế lực thù địch cả trong và ngoài nước. Bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển càng làm cho các hình thức và thủ đoạn chống phá trở nên tinh vi hơn, đồng nghĩa nguy cơ ngày càng lớn hơn. Đây cũng là một trở ngại đối với sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Ba là, thiếu những cơ sở thực tiễn để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Như đã biết, tư tưởng Nhà nước pháp quyền xuất hiện từ rất sớm, nhưng phải đến thời đại cách mạng tư sản mới có những điều kiện để phát triển thành học thuyết và hiện thực hoá trong thực tế. Nước ta hiện nay vẫn còn những hạn chế nhất định về trình độ phát triển kinh tế, trình độ dân trí, ý thức thượng tôn pháp luật của người dân… Những điều này nếu không được khắc phục kịp thời sẽ là một thách thức lớn ngăn cản quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Bốn là, thách thức trong quá trình bảo tồn và gìn giữ các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa thế giới, đưa các giá trị Việt Nam đến gần hơn với các giá trị thế giới. Toàn cầu hóa, hội nhập và phát triển đòi hỏi khả năng tự khẳng định trong quá trình giao lưu và tiếp biến. Mong muốn hội nhập nhưng không hòa tan, tiếp thu có chọn lọc và hiệu quả các giá trị thế giới cho phù hợp với điều kiện và các giá trị truyền thống của người Việt Nam cũng là một thách thức rất lớn.
- Một số giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong xu thế hội nhập và phát triển
Để tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, trong thời gian tới cần tập trung vào một số giải pháp cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả ba lĩnh vực: Xây dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại với tính công khai, minh bạch cao, phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng. Chỉ đạo chặt chẽ quá trình chuẩn bị và thông qua các dự án luật, bảo đảm quán triệt đường lối, quan điểm của Đảng, tổng kết thực tiễn, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm lập pháp tiên tiến của nước ngoài; tập hợp trí tuệ của các nhà khoa học, các chuyên gia, ý kiến đóng góp của nhân dân, nhất là các đối tượng có liên quan đến việc thi hành pháp luật. Các bộ luật, luật ban hành cần bảo đảm tính khả thi, dễ hiểu, quy định cụ thể để khắc phục tình trạng phải chờ đợi văn bản hướng dẫn thi hành. Tăng cường thông tin, tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật để nhân dân hiểu và tự giác chấp hành. Tổ chức thực hiện và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, đấu tranh chống các biểu hiện coi thường pháp luật, kỷ cương, phép nước. Bên cạnh đó cần đề cao tinh thần “thượng tôn pháp luật,” coi trọng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, văn hóa, kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh đạo đức, văn hóa và dư luận xã hội. Nâng cao vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong việc xây dựng, bảo vệ chính quyền, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, thu hút sự tham gia ngày càng rộng rãi của nhân dân vào công việc quản lý nhà nước, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu và các hiện tượng tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước cũng như trong đời sống xã hội.
Thứ hai, chủ động xây dựng và kiến tạo các điều kiện thuận lợi để các giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có thể hình thành và phát triển mạnh mẽ. Trước mắt cần tập trung tiến hành một cách toàn diện, đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, tận dụng mọi thời cơ, vượt lên mọi khó khăn, thách thức, đưa đất nước đến gần hơn các giá trị của nhân loại. Cần có các hình thức đẩy mạnh xã hội học tập, nâng cao trình độ dân trí, tạo lập môi trường để rèn luyện ý thức và bản lĩnh chính trị của công dân. Quyết tâm thực hiện các cơ chế mở rộng dân chủ, đặc biệt là yêu cầu công khai, minh bạch và quyền được thông tin để người dân thực sự được sống, được tham gia vào đời sống chính trị, được biết và cho ý kiến về những quyết sách có liên quan. Có các cơ chế thúc đẩy kinh tế, văn hóa phát triển, vì đời sống vật chất, tinh thần của người dân có thực sự được cải thiện theo hướng đầy đủ và văn minh thì ý thức, niềm tin, thái độ và hành động của họ mới tốt lên được.
Thứ ba, luôn đứng vững trên lập trường quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu có chọn lọc những giá trị phổ biến về xây dựng Nhà nước pháp quyền trên thế giới. Việc học hỏi kinh nghiệm, tìm tòi, nghiên cứu, chọn lọc, tiếp thu và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa, giá trị tiến bộ về Nhà nước pháp quyền là một nhu cầu cần thiết khách quan. Tuy nhiên, học hỏi và vận dụng như thế nào cho có hiệu quả, thiết thực và phù hợp với Việt Nam là vấn đề không dễ dàng. Trong quá trình này, vấn đề có tính quan điểm, phương hướng là cần không ngừng khẳng định, phát triển và làm sâu sắc hơn quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Những quan điểm, nội dung và phương thức cầm quyền cần được Đảng ta nhận thức sâu sắc và vận dụng sáng tạo vào lãnh đạo xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, Đảng cầm quyền lãnh đạo xây dựng Nhà nước phải giữ vững nguyên tắc Đảng lãnh đạo bằng quan điểm, đường lối chính trị và cầm quyền lãnh đạo bằng pháp luật. Cách mạng xã hội chủ nghĩa Việt Nam thể hiện đặc thù của bản chất, nội dung, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam và đó cũng là đặc điểm của mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề có tính bản chất, tính nguyên tắc, cả về nội dung, phương thức, cách thức của nhà nước pháp quyền, mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và xây dựng nhà nước pháp quyền vẫn phải bảo đảm tính chung, tính phổ quát. Do đó, cần gắn kết chặt chẽ bản chất giai cấp của Nhà nước với tính dân tộc, tính nhân dân, thể hiện sâu sắc ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bởi lợi ích căn bản của giai cấp công nhân, của dân tộc và của nhân dân là thống nhất.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là công việc hoàn toàn mới mẻ, cần đến tính tích cực, chủ động và sáng tạo rất lớn của Đảng, tuyệt đối không thể rập khuôn theo các giá trị và mô hình xây dựng của các nước phương Tây với các mô hình và thể chế chính trị khác. Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải bảo đảm nguyên lý của mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là Đảng phải luôn bảo đảm được tính chính đáng trong cầm quyền của mình thể hiện uy tín, sự tin tưởng, sự cuốn hút của Đảng đối với nhân dân; tính hiệu quả trong lãnh đạo phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đáp ứng yêu cầu, lợi ích của nhân dân. Đồng thời, để tiến nhanh cùng với xu thế phát triển của xã hội hiện đại, sự cầm quyền của Đảng trong quan hệ với xây dựng nhà nước pháp quyền cần không ngừng được đổi mới: Quyền lực chính trị của Đảng gắn liền với quyền lực nhà nước và quyền lực của nhân dân.
TS. Lưu Ngọc Tố Tâm - Học viện Báo chí và Tuyên truyền
------------------------------
Ghi chú:
(1),(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H.2016.
Tài liệu tham khảo:
- Trần Đại Quang, “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân”, www.nhandan.com.vn, 2017.
- Trần Thành, “Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Triết học, số 4/2008.
Theo Tạp chí Nhà nước
Tâm Trang (st)