Chủ tịch Hồ Chí Minh - người sáng lập, lãnh đạo, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam; người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay; kiến trúc sư vĩ đại và linh hồn của khối đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất. Trước lúc đi xa, Người đã để lại cho Đảng ta, nhân dân ta những di sản vô giá, mà một trong những di sản đó là tư tưởng của Người - tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh với nông dân xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương
(tháng 5/1957). Ảnh: Tư liệu.
Đó là hệ thống các quan điểm toàn diện, nhất quán và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam: Từ cách mạng dân tộc, dân chủ tiến lên chủ nghĩa xã hội không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là cuộc cách mạng thuộc địa từ giải phóng dân tộc đến giải phóng xã hội, giải phóng con người trong điều kiện của nước ta…
Trong hệ thống những quan điểm đó nổi lên tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc và Mặt trận Dân tộc thống nhất.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành công của cách mạng. Cách mạng muốn thành công, phải có lực lượng đủ mạnh để chiến thắng kẻ thù và xây dựng xã hội mới. Việc xây dựng lực lượng trong nước có ý nghĩa quyết định. Theo Người, muốn có lực lượng đủ mạnh thì phải thực hành đoàn kết vì “đoàn kết là một lực lượng vô địch”.
Người cho rằng: Cách mạng là công việc chung của toàn dân, chứ không phải là công việc của một vài người. Cách mạng là một việc khó nhưng biết cách làm, biết đồng tâm, hiệp lực mà làm thì chắc chắn làm được.
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi, chặt chẽ và lâu dài toàn dân tộc thành một khối. Đoàn kết dân tộc kết hợp với đoàn kết quốc tế sẽ tạo ra sức mạnh to lớn để chiến thắng mọi kẻ thù. Người viết:
“Nhờ đại đoàn kết dân tộc mà trong bao thế kỷ nhân dân Việt Nam đã bảo vệ được độc lập, tự do của mình. Nhờ đại đoàn kết mà nhân dân Việt Nam đã đánh thắng chủ nghĩa thực dân, làm Cách mạng Tháng Tám thành công và đã kháng chiến thắng lợi. Nhờ đại đoàn kết toàn dân mà nước Việt Nam chúng ta nhất định sẽ thống nhất”(1).
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng, được xây dựng trên cơ sở lấy lợi ích tối cao của đất nước và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể, lợi ích gia đình với lợi ích xã hội, lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc.
Lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là một mục tiêu, một nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng Việt Nam. Đây là nguyên tắc “bất biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lấy cái “bất biến”, cái thống nhất, cái chung, cái ổn định đó làm điểm tương đồng mà điều hòa, giải quyết các vạn biến, tức cái khác biệt về lợi ích, về ý kiến, về thị hiếu, về thành phần xã hội vốn có trong nhân dân, trong mọi xã hội.
Những lợi ích cơ bản của nhân dân lao động được thể hiện cụ thể trong từng giai đoạn cách mạng. Để giải quyết đúng đắn mối quan hệ đó theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết phải xử lý đúng mối hệ cốt lõi giữa giai cấp và dân tộc.
Theo Người: “Dân tộc không độc lập thì giai cấp vạn năm không được giải phóng và nhân dân ta mãi mãi phải chịu kiếp ngựa trâu”. Và “Nhưng nếu nước ta được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc lập đó chẳng có ý nghĩa gì”(2) “Dân chỉ biết giá trị của tự do, của độc lập khi dân được ăn no, mặc đủ”(3).
Trong mối quan hệ đó, vai trò lãnh đạo và lợi ích của giai cấp công nhân chỉ có thể được đảm bảo khi giai cấp công nhân trở thành trung tâm liên kết các giai cấp và đại diện cho lợi ích chung nhất của các giai cấp, tức giai cấp công nhân phải trở thành dân tộc, phải giương cao ngọn cờ dân tộc.
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Người đã kết hợp nhuần nhuyễn luận điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” với tư tưởng truyền thống của tổ tiên “Nước lấy dân làm gốc”. Dân theo tư tưởng của Người bao gồm: “Mọi con dân nước Việt”, “con cháu Lạc Hồng” không phân biệt thiểu số, đa số, người có tín ngưỡng và người không tín ngưỡng, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, không phân biệt giàu nghèo.
Yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống chết vì dân; vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân là nguyên tắc tối cao và xuyên suốt trong nhận thức và hành động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Với nhận thức “có dân là có tất cả”, Người đã dành cả cuộc đời tạo dựng và chăm lo cho rừng cây đại đoàn kết dân tộc đâm chồi nảy lộc, nở hoa, kết trái.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Muốn thực hiện được đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của tổ tiên, phải có lòng khoan dung với con người. Người viết: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp nhau lại ở nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này, thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận rằng: đã là con Lạc, cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối, lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”(5).
Một sáng tạo lớn, đồng thời là một cống hiến lớn lao của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta đối với dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới là việc đề xướng thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: Cách mạng giải phóng dân tộc là sự vùng dậy của cả một dân tộc để đánh đổ ách thống trị của nước ngoài. Giai cấp vô sản không thể tự mình làm nổi mà phải liên minh với các lực lượng yêu nước trong dân tộc(6). Và “Cuộc cách mạng trong một nước thuộc địa là một cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ. Để đưa cuộc cách mạng đó đến thắng lợi, có thể và cần phải thành lập một Mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi, đoàn kết tất cả các giai cấp và tầng lớp xã hội mong muốn được giải phóng khỏi ách thuộc địa” (7).
Vì vậy, theo Người, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, tư tưởng, ở những lời kêu gọi chung chung, mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải trở thành sức mạnh vật chất, một lực lượng mạnh có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam phát biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ hai Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tháng 5 năm 1983: “Hồ Chủ tịch và Đảng ta luôn luôn thấy ở mỗi người Việt Nam một người yêu nước và Mặt trận là sự tập hợp và nhân lên gấp bội tinh thần yêu nước đó”.
Năm 1930, gần như cùng một thời gian, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, các đoàn thể cách mạng của công nhân và nông dân được tổ chức và Hội phản đế đồng minh - hình thức tổ chức đầu tiên của Mặt trận được thành lập.
Trong cách mạng dân tộc, dân chủ, nội dung và hình thức tổ chức Mặt trận có sự thay đổi cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng của từng thời kỳ như: Mặt trận dân chủ Đông Dương trong những năm đấu tranh hợp pháp 1936 - 1939; Mặt trận Việt Minh trong cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật dẫn đến thành công của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á; Mặt trận Liên Việt trong kháng chiến chống Pháp; Mặt trận Tổ quốc ở miền Bắc và Mặt trận giải phóng miền Nam Việt Nam cùng Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ.
Đoàn kết trong Mặt trận Liên Việt, nhân dân ta đã làm nên chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy 5 châu, chấn động địa cầu”, đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi, giải phóng một nửa đất nước, đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội làm hậu phương vững chắc cho tiền tuyến lớn miền Nam ruột thịt. Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, trong Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam, nhân dân ta đã làm tròn sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Kế tục vai trò lịch sử của các hình thức tổ chức Mặt trận trước đây, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày nay chủ trương phát huy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, ý thức tự lực, tự cường, đoàn kết mọi người Việt Nam không phân biệt quá khứ, thành phần giai cấp, dân tộc, tôn giáo, ý thức hệ ở trong nước hay ở nước ngoài, miễn là tán thành mục tiêu chung là giữ vững độc lập, thống nhất chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”, góp phần tích cực vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Nguyễn Túc
(Ủy viên Đoàn Chủ tịch
UBTƯ MTTQ Việt Nam)
------------------------------------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 8, trang 57, NXB Sự thật 1960
(2) Hồ Chí Minh “Về đại đoàn kết”, NXB Chính trị Quốc gia năm 1994 trang 181
(3) Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng in trên báo Cứu Quốc ngày 17-10-1945
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. NXB Chính trị Quốc gia, trang 116 – 117
(5) Hồ Chí Minh “Về đại đoàn kết”, NXB Chính trị Quốc gia 1994 trang 34, 35
(6) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự thật 1960 trang 651
(7) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Sự thật 1960 trang 652
Theo http://daidoanket.vn
Huyền Trang (st)