Hiện nay, tình trạng tham những, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng, ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, Đảng phải thật sự là trí tuệ, là lương tâm, là đạo đức; Đảng phải tạo được sự đồng thuận, sự đoàn kết của toàn thể dân tộc. Do vậy, nhiệm vụ cấp bách trong bối cảnh hiện nay là phải đề ra các giải pháp hiệu quả trong việc xây dựng Đảng về mặt đạo đức.
1. Ra đời vừa tròn 15 năm, chỉ với gần 5 nghìn đảng viên nhưng được cả dân tộc tin tưởng, đồng lòng và ủng hộ, Đảng đã lãnh đạo thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành lại độc lập cho dân tộc sau gần 100 năm bị thực dân Pháp đô hộ và lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Chính quyền của chế độ dân chủ nhân dân vừa mới ra đời thì đất nước đã lại phải đương đầu với cuộc xâm lược của chính chủ nghĩa thực dân Pháp, những kẻ vừa bị mất quyền thống trị nước ta nhưng lại đang có sức mạnh hơn gấp nhiều lần so với ta về quân sự. Cuộc kháng chiến không cân sức của quân và dân ta chống thực dân Pháp xâm lược suốt 9 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm nên một trận Điện Biên Phủ lịch sử, gây chấn động địa cầu, dẫn tới hiệp định đình chiến và một nửa nước được hoàn toàn giải phóng.
Tuy nhiên, đất nước hòa bình chưa được bao lâu thì một lần nữa cả dân tộc ta lại bắt buộc phải tiến hành một cuộc chiến tranh kéo dài hơn, khốc liệt hơn và tàn ác hơn gấp nhiều lần để chống lại sự xâm lược của đế quốc Mỹ hùng mạnh. Hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã hy sinh trong cuộc chiến tranh này để giành thắng lợi hoàn toàn, thống nhất giang sơn về một mối.
Có được những thắng lợi vẻ vang trong kháng chiến trước hết cần phải thừa nhận rằng, đó là do Đảng ta đã thực sự là trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh”; có đường lối tiến hành chiến tranh hết sức đúng đắn và sự đoàn kết toàn Đảng, toàn dân. Đúng như đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Vì sao ta thành công? - Vì ta đoàn kết!”. “Trong kháng chiến địch có hải, lục, không quân; ta thì về hải quân, không quân không có... Vì sao mà thắng được? Vì đoàn kết”(1). Tinh thần đoàn kết đó xuất phát từ tinh thần yêu nước, từ lòng tin không gì lay chuyển nổi của toàn thể dân tộc vào Đảng, từ những tấm gương anh dũng hy sinh quên mình vì dân, vì nước, vì sự “thân dân” và sự “chính tâm” của các cán bộ và đảng viên của Đảng, vì đã có “đảng viên đi trước” nên “làng nước theo sau”. Dân tin Đảng chính vì “Đảng ta không phải trên trời sa xuống. Nó ở trong xã hội mà ra”(2), là một phần hữu cơ của xã hội chứ không phải đứng trên hoặc đứng ngoài xã hội. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà Hồ Chí Minh gọi Đảng ta là Đảng của cả dân tộc Việt Nam, còn nhân dân thì gọi Đảng là Đảng ta. Đảng ta - một tên gọi nhưng đó là cả một niềm tin, là cả một niềm tự hào và cả một sự gửi gắm kèm theo đó là niềm hy vọng vào tương lai tươi sáng.
Mặc dù trong suốt lịch sử vinh quang của mình, có lúc Đảng ta cũng đã mắc những thiếu sót, những khuyết điểm và thậm chí cả những sai lầm nhưng Đảng đã không hề che dấu; đã thực sự nghiêm túc khắc phục, sửa chữa để đáp lại niềm hy vọng và nguyện vọng của nhân dân nhằm đưa đất nước đi lên. Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, Đảng luôn ghi nhớ lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng”(3). Vì vậy, Đại hội VI của Đảng đã “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”, nghiêm khắc tự phê bình là Đảng đã mắc “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy theo nguyện vọng chủ quan”(4). Từ sự tự phê bình nghiêm khắc đó, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử dân tộc.
2. Nhờ đổi mới tư duy, thừa nhận kinh tế thị trường là thành quả của nền văn minh nhân loại chứ không phải của riêng chủ nghĩa tư bản và từng bước thực hiện phát triển kinh tế thị trường thay thế cho cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp nên chúng ta đã thu được những thành tựu nhiều mặt rất đáng tự hào; đất nước bước vào một giai đoạn phát triển mới; thu nhập quốc dân tính theo đầu người đã tăng đáng kể so với trước khi đổi mới, đặc biệt là đời sống đa số nhân dân được cải thiện một bước quan trọng.
Trong kinh tế thị trường, sự năng động, chủ động của cá nhân trong tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội tăng lên chưa từng có. Khi mọi người, kể cả các đảng viên, được làm kinh tế, được phép kinh doanh trong tất cả những lĩnh vực mà pháp luật không cấm thì sức ỳ, sự dựa dẫm, ỷ lại vào Nhà nước đã giảm đi rõ rệt; trong khi đó sáng kiến, sự sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh đã thực sự nở rộ và được phát huy mạnh mẽ chưa từng có.
Tuy nhiên, phải thừa nhận rằng, thành công về kinh tế không khỏa lấp được những yếu kém và sự suy thoái về các mặt khác, nhất là về mặt đạo đức xã hội. Mặt trái của kinh tế thị trường có điều kiện để gây nên những tác động tiêu cực khi mà trong công tác tổ chức cán bộ, trong điều hành và quản trị đất nước, trong hoạch định và thực thi các chính sách còn nhiều sơ hở và yếu kém, luật pháp còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ...
Mặc dù đã chuyển sang kinh tế thị trường nhưng ở đâu đó, chúng ta vẫn còn duy trì cơ chế xin - cho; vẫn còn tình trạng phân phát dự án, đất đai, tài chính, tín dụng; chỉ định thầu các công trình xây dựng không thông qua đấu thầu công khai, minh bạch nên đã làm méo mó các quy luật kinh tế khách quan. Cơ chế xin - cho là mảnh đất vô cùng màu mỡ cho tình trạng tham nhũng, cho tình trạng “làm luật” tràn lan khắp tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; gây nên sự lãng phí rất lớn ở mọi cấp độ; cho sự nở rộ của các nhóm lợi ích tiêu cực; cho sự liên kết giữa những người nắm quyền lực chính trị và những người có sức mạnh kinh tế; làm hư hỏng không ít đảng viên và nhất là các cán bộ có chức, có quyền ở các cấp độ khác nhau. Tham nhũng quyền lực cũng phát sinh từ đây.
Không thể không nhắc tới những trường hợp bổ nhiệm cán bộ là người thân, người nhà của các vị lãnh đạo vào các chức vụ mang lại nhiều lợi ích kinh tế, đã được các phương tiện truyền thông phanh phui; Đảng và Nhà nước ta đã và đang xử lý nghiêm khắc.
Đảng cũng đã thẳng thắn chỉ ra, có không ít cán bộ “lợi dụng chức vụ, quyền hạn... để trục lợi; để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực”; “thao túng trong công tác cán bộ, chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội”; “sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội”(5).
Ngay từ những kỳ Đại hội trước, Đảng ta đã có những đánh giá thẳng thắn về các tệ nạn này. Đại hội IX nhận định: “Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng”(6).
Đại hội X tiếp tục khẳng định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn liền với tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn đang diễn ra nghiêm trọng chưa được ngăn cản có hiệu quả”(7).
Đại hội XI nhận định: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”(8).
Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI đánh giá cụ thể hơn: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tuỳ tiện, vô nguyên tắc...”(9).
Đại hội XII tiếp tục khẳng định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi”(10).
Từ những nhận định trên đây của các kỳ Đại hội Đảng và Hội nghị Trung ương, có thể thấy sự suy thoái các mặt trong nội bộ Đảng từ chỗ rất nghiêm trọng, còn nghiêm trọng, đến chỗ chưa bị đẩy lùi, nghĩa là vẫn chưa được khắc phục, chưa tìm được đúng thuốc chữa hoặc dùng thuốc chưa đủ liều.
Đại hội IX đánh giá là rất nghiêm trọng, bởi vì, đối với một đảng chính trị khi đang nắm quyền lãnh đạo đất nước mà lại có một bộ phận không nhỏ đảng viên ở tất cả các cấp không những không mạnh về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, lại còn mắc cả bệnh quan liêu, tham nhũng, lãng phí, hành dân, xa dân, v.v. thì sức mạnh và uy tín của Đảng bị suy giảm là điều rất đáng báo động. Nguy cơ một Đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước mà có nhiều đảng viên suy thoái về nhiều mặt nếu không được khắc phục kịp thời thì đến một lúc nào đó khó tránh khỏi Đảng sẽ mất sức chiến đấu, mất uy tín và mất lòng tin của nhân dân, đe dọa nghiêm trọng vai trò lãnh đạo của Đảng và sự sống còn của chế độ.
Như vậy, suốt 15 năm, qua 4 kỳ Đại hội Đảng, dường như chưa có sự chuyển biến rõ rệt trong việc khắc phục tình trạng suy thoái các mặt về đạo đức, lối sống và tư tưởng chính trị, trong đó có tệ nạn tham nhũng, lãng phí ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
3. Vậy, trước tình trạng suy thoái nghiêm trọng về đạo đức trong Đảng, chúng ta cần phải xuất phát từ quan điểm nào và cần thực thi những giải pháp thiết thực và cấp bách nào để củng cố và tăng cường sức mạnh của Đảng, nhất là để lấy lại niềm tin của nhân dân vào Đảng?
Cần thấm nhuần sâu sắc và thực thi trong thực tiễn quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng: “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”; “ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”, do vậy, “Đảng phải luôn luôn xét lại những nghị quyết và những chỉ thị của mình đã thi hành thế nào. Nếu không vậy thì những nghị quyết và chỉ thị đó sẽ hóa ra lời nói suông mà còn hại đến lòng tin cậy của nhân dân đối với Đảng”(11).
Có thể nói, các nghị quyết của Đảng về xây dựng Đảng, về việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng tuy đã được ban hành khá nhiều và khá đầy đủ, nhưng việc thực thi thì chưa đạt hiệu quả mong muốn. Do vậy, cần chỉ rõ nguyên nhân, cần nêu ra các giải pháp thiết thực.
Trước hết, cần có sự kiểm soát quyền lực nhưng để kiểm soát được quyền lực thì cần phải có sự giám sát quyền lực, đặc biệt phải có Nghị quyết về kiểm soát quyền lực hay cao hơn là có Đạo luật kiểm soát và giám sát quyền lực. Một nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân không thể thiếu đạo luật này. Chính vì chưa có một đạo luật như vậy nên khi đã ngồi vào được vị trí quyền lực thì người ta sẵn sàng dùng quyền lực không hạn chế, nhân danh quyền lực đã được trao để làm bất cứ cái gì mà người ta muốn. Bởi vì, “quy luật chung là bất cứ ai có quyền lực mạnh nhất đều bị cám dỗ trong việc lạm dụng quyền lực ngày càng nhiều hơn”(12).
Do chưa có một đạo luật như vậy nên mới “nở rộ” tình trạng tham nhũng quyền lực trong việc bố trí những người ruột thịt, những người thân yếu kém về năng lực chuyên môn, suy thoái về đạo đức vào các chức vụ quan trọng khác nhau. Có nhiều vụ như vậy đã được phanh phui và đang được xử lý. Song, đáng tiếc là cả việc phanh phui lẫn việc xử lý đều chậm, thậm chí xử lý sau khi đã nghỉ hưu cho nên tác dụng răn đe chưa cao. Tham nhũng quyền lực ắt sẽ dẫn đến tham nhũng vật chất, là điều kiện tốt nhất và dễ nhất để tham nhũng vật chất. Niềm tin của dân vào các tổ chức Đảng và vào chính quyền giảm sút một phần là vì như thế.
Một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu là thực hành dân chủ trong Đảng và ngoài xã hội, trong mọi lĩnh vực công tác, trong đó có cả nghiên cứu lý luận và nghiên cứu khoa học. Phải tôn trọng và đảm bảo quyền tự do, quyền giám sát của mọi công dân đã được luật pháp quy định để mọi đảng viên và quần chúng nói lên tiếng nói của mình trong việc phát hiện những biểu hiện hoặc hành vi lạm quyền, tham nhũng, làm trái pháp luật của những người nắm quyền lực bất kể ở cấp nào trong hệ thống chính trị của đất nước.
Một khi dư luận xã hội đã lên tiếng hay nhà khoa học phát hiện ra những điều bất thường hoặc một khiếm khuyết nào đó trong đường lối, trong các chính sách, trong những việc làm cụ thể thì Đảng cần lắng nghe và cân nhắc thật sự cầu thị nhằm tìm ra chân lý, phục tùng chân lý và bảo vệ chân lý. Về điều này, sinh thời Hồ Chí Minh đã từng viết: “Tự do tư tưởng - Chế độ ta là chế độ dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người. Khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã tìm thấy chân lý, lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra là quyền tự do phục tùng chân lý”(13).
Lắng nghe những phản biện mang tính xây dựng, lắng nghe dư luận phản hồi của người dân, của đảng viên, của thế hệ trẻ thông qua việc thực hành dân chủ rộng rãi và thực chất để cho công tác tổ chức của Đảng và Nhà nước không mắc những sai lầm khi chọn người, đặt ghế. Nói cách khác, trước và cả sau khi cất nhắc, bổ nhiệm cán bộ vào một vị trí nào đó cần hết sức lắng nghe ý kiến của cả đảng viên và quần chúng về người sắp hoặc đã được bổ nhiệm; phải để cho “mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy”(14). Làm được như vậy thì chắc chắn sẽ mang lại hiệu quả, mới chống được sự suy thoái, lấy lại được niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Để chống suy hóa về đạo đức của cán bộ, đảng viên rất cần chú ý đến năng lực thực sự của người đứng đầu cơ quan, tổ chức. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”; “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém. Đó là một chân lý nhất định”(15). Người đứng đầu các cơ quan, tổ chức không những phải có đầy đủ năng lực chuyên môn, phẩm chất đạo đức, vừa có tâm, vừa có tầm, mà còn cần phải đối xử công bằng với người dưới quyền cả trong nghĩa vụ lẫn trong hưởng thụ. Nếu người đứng đầu thiên vị, ưa nịnh nọt, nhưng lại trù úm, loại bỏ những ý kiến đóng góp chân thành và trung thực, thì đó chính “là một thứ bệnh hẹp hòi”; “vì bệnh hẹp hòi mà không biết dùng nhân tài”(16). Nếu ở đâu mà người lãnh đạo mắc phải bệnh hẹp hòi thì chắc chắn ở đó sẽ có tình trạng kéo bè kéo cánh, tiềm ẩn nguy cơ bất ổn, mất đoàn kết trong tổ chức, trong cơ quan.
Những kẽ hở trong không ít chính sách đang làm cho sự không công bằng trở nên gay gắt. Rất dễ thấy vì sao người ta dám bỏ tiền ra để chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ làm trong nhiều năm qua. Họ bỏ tiền ra vì họ tin rằng họ sẽ thu lại và sẽ có lãi. Chính vì vậy, cần tổ chức thi tuyển các vị trí lãnh đạo thật công khai, minh bạch để những người có tài có được vị trí công tác xứng đáng với năng lực của họ, có như vậy mới ngăn chặn được nạn chạy chức, chạy quyền và nạn tham nhũng.
Những thành tựu trong phát triển kinh tế cho đến nay là rất đáng tự hào. Tuy nhiên, đã đến lúc phải chú ý đến một khía cạnh khác trong sự phát triển đó. Trong xã hội, nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường, cần thừa nhận rằng sự phân hóa giàu nghèo là hiện tượng bình thường. Song, sẽ là bất thường nếu không chú ý đến sự phân cực giàu nghèo ở nước ta đang có chiều hướng tăng lên rất nhanh.
Chúng ta mong sao có nhiều người giàu để đất nước nhanh giàu. Vấn đề đặt ra là cần có chính sách thật hợp lý để phân phối lại thật công bằng những thành quả của sự phát triển. Nếu không có chính sách đúng đắn và hợp lý thì hai khả năng có thể xảy ra.
Một là, người giàu không được khuyến khích làm giàu thêm và cũng không có động lực để làm giàu thêm. Nếu những ai làm giàu chân chính thì cần khuyến khích họ. Tuy nhiên, nếu ai làm giàu bất chính, kể cả đối với cán bộ, đảng viên là lãnh đạo nếu vi phạm pháp luật thì phải xử lý thật nghiêm minh theo pháp luật.
Hai là, người nghèo không được hưởng thành quả của sự phát triển sẽ có những phản ứng tiêu cực. Nếu số người nghèo tăng lên, nếu người dân ở các vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đời sống không được cải thiện thì trong xã hội sẽ tiềm ẩn bất ổn. Vì vậy, chính sách lương phải được xây dựng một cách khoa học, bảo đảm tính công bằng nhưng khuyến khích được người tài để tránh việc chạy chức, chạy quyền.
Các chính sách xã hội hợp lý quan tâm đến những người có công, những người yếu thế cũng sẽ góp phần không nhỏ trong việc giảm bớt các tệ nạn xã hội, từng bước ngăn chặn, giảm bớt, tiến tới loại trừ nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đạo đức xã hội nói chung, và đạo đức của cán bộ, đảng viên nói riêng.
Dĩ nhiên, không thể coi nhẹ biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng thường xuyên nhưng phải thực chất, không thể làm qua loa, chiếu lệ, hình thức. Phương pháp truyền đạt và nghiên cứu các văn kiện quan trọng trong Đảng cần phải được cải tiến trong điều kiện truyền thông đa phương tiện như ngày nay.
Khi tư tưởng chưa thông, khi lý luận xa rời thực tiễn cuộc sống, khi trong xã hội và cả trong Đảng còn nhiều tiêu cực, còn nhiều cán bộ thoái hóa mà không được xử lý kịp thời và xử lý thích đáng thì niềm tin của dân sẽ giảm sút, thì sức thuyết phục, tính chính đáng của Đảng cầm quyền đối với người dân sẽ giảm sút và sức mạnh của Đảng cũng khó duy trì. Do vậy, nhiệm vụ cấp bách trong bối cảnh hiện nay là phải xác định cho đúng, cho trúng quan điểm và các giải pháp thật sự hiệu quả trong việc xây dựng Đảng về đạo đức nhằm khôi phục lại niềm tin đó của dân để tăng cường sức mạnh của Đảng và đưa đất nước tiếp tục phát triển.
GS, TS. Nguyễn Trọng Chuẩn
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
Theo Tạp chí Lý luận chính trị
Đức Lâm (st)
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 2 -2018
(1), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.383, 216.
(2), (3), (11), (14), (15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.262, 261, 249-250, 232, 269, 240, 238.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, 1987, tr.12, 26.
(5) ĐCSVN: Văn kiện hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, lưu hành nội bộ, tháng 11-2016, tr.31-32, 230, 269, 240, 238.
(6), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.76, 29.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.22.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.21.
(10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.15.
(12) S.Mill: Chính thể đại diện, Nxb Tri thức, Hà Nội, 2007, tr.163.