Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nhiều bài học kinh nghiệm quý báu, mãi mãi soi sáng cho cách mạng Việt Nam trên con đường đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, bài học về xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vẫn còn nguyên giá trị, cần được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo và nhân lên trong thời đại mới dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Tháng Tám năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ Hồ Chí Minh, dân tộc Việt Nam đã đứng lên làm cuộc cách mạng, giành thắng lợi, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam), Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Đây là một mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta; mở ra kỷ nguyên mới - kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nâng tầm cao uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thành công của Cách mạng Tháng Tám là kết quả của sự vận động cách mạng gian khổ trong suốt 15 năm, kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (03-02-1930); đồng thời, hội tụ nhiều yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan. Song, một trong những nguyên nhân quan trọng có ý nghĩa quyết định là Đảng ta đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, một lòng, một dạ đứng lên đánh đổ thực dân, phong kiến, mang lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh, các tầng lớp nhân dân: Phú, sĩ, nông, công, thương, trí thức, phụ nữ, thanh niên, học sinh, sinh viên, thiếu niên, nhi đồng, các dân tộc trên khắp mọi miền đất nước… đã không quản ngại khó khăn, gian khổ, cống hiến sức người, sức của, tích cực hưởng ứng, tham gia phong trào cách mạng. Điều đó khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối, chủ trương, phương pháp cách mạng đúng đắn, nguồn sức mạnh của Đảng để làm nên thắng lợi Cách mạng Tháng Tám cần được nghiên cứu, vận dụng sáng tạo vào xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” hiện nay, nhằm tạo động lực mới cho cách mạng để thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; trong đó, nổi bật là những vấn đề sau:

Một làxây dựng Đảng thực sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam, gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin tưởng, đi theo. Đây là bài học xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng. Khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lúc đó Đảng ta mới 15 tuổi, với gần 5.000 đảng viên, nhưng đã lãnh đạo toàn dân tộc làm cuộc cách mạng, giành thắng lợi. Thành công đó, là nhờ Đảng được xây dựng trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ sáng suốt, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức. Đảng nắm vững thời cơ, kiên định, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, định ra đường lối, phương pháp cách mạng đúng đắn. Đặc biệt, Đảng có đội ngũ cán bộ, đảng viên tiên phong, gương mẫu, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân; luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, được nhân dân tin tưởng và đi theo. Nhờ đó, khi Đảng kêu gọi nhân dân đứng lên làm cuộc cách mạng thì muôn người như một, đoàn kết thành sức mạnh dời non, lấp biển khiến kẻ thù phải khiếp sợ.

CMT8
Toàn cảnh khai mạc Hội nghị lần thứ Tư
Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa XII. (Ảnh: nhandan.com.vn)

Ngày nay, trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ; luôn xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Phát huy kết quả đạt được, các cấp ủy, tổ chức đảng phải kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với Chỉ thị 05-CT/TƯ của Bộ Chính trị (Khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Qua đó, giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên “vừa hồng, vừa chuyên”, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tham nhũng, lãng phí, xa rời nhân dân; bồi dưỡng phương pháp, tác phong làm việc khoa học, dân chủ, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Xây dựng sự đoàn kết trong Đảng là hạt nhân vững chắc để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân” vững mạnh. Đồng thời, nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí; tổ chức thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Có như vậy, mới củng cố được niềm tin, mối quan hệ mật thiết của các tầng lớp nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ, tạo sự đồng thuận xã hội và phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Hai làĐảng đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết, giải quyết hài hòa lợi ích và thường xuyên chăm lo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực tiễn Cách mạng Tháng Tám cho thấy, trước yêu cầu của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, từ Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu, thứ bảy đến Hội nghị lần thứ tám1, Đảng đã có quyết định chuyển hướng chiến lược cách mạng quan trọng. Đó là, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm gác nhiệm vụ cách mạng ruộng đất; xác định tính chất của cuộc cách mạng lúc này là “cuộc cách mạng dân tộc giải phóng”, vì “trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc”2. Về kẻ thù của cách mạng, từ chỗ xác định là chủ nghĩa đế quốc và bọn tay sai ở Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy, thứ tám xác định kẻ thù của nhân dân Đông Dương là Pháp - Nhật; thay khẩu hiệu “Phản đế” (của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu) hay “Phản đế cứu quốc” (của Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ bảy) bằng khẩu hiệu “Cứu Quốc”. Mục tiêu của cách mạng là, sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật sẽ lập nên nước Việt Nam mới, theo chế độ dân chủ cộng hòa, v.v. Đây là sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đúng đắn, sáng tạo của Đảng, trên cơ sở đặt lợi ích của dân tộc lên trên; giải quyết hài hòa lợi ích của giai cấp với lợi ích của dân tộc, lợi ích giữa các dân tộc, các tầng lớp nhân dân, đúng như tôn chỉ, mục đích hoạt động của Đảng. Đó còn là sự kế thừa, phát triển, hoàn thiện chủ trương, đường lối giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc vạch ra trong Chánh cương vắn tắt tháng 02-1930; đồng thời, thể hiện sự trưởng thành vượt bậc của Đảng ta về lãnh đạo chính trị, xây dựng đường lối cách mạng giải phóng dân tộc. Nhờ vậy, Đảng đã tập hợp, đoàn kết và phát huy được sức mạnh to lớn của nhân dân cả nước hướng vào thực hiện mục tiêu giành độc lập dân tộc. Mặc dù gian khổ, hy sinh, hàng vạn cán bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng bị địch bắt, sát hại, nhân dân vẫn tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, ra sức chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa giành chính quyền. Khi thời cơ Tổng khởi nghĩa đến, hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn dân đứng dậy khởi nghĩa theo tinh thần mang sức ta mà tự giải phóng cho ta đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi.

Phát huy bài học này, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lợi ích của nhân dân, của Tổ quốc lên trên hết; quan tâm chăm lo nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đảng không có lợi ích nào khác, và tuyệt đối trung thành với mục tiêu, lý tưởng đã xác định, là phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đảng viên luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Điều này không chỉ được ghi trong Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, mà thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh. Nhất là, trước khó khăn của đời sống nhân dân, Đảng luôn bám sát thực tiễn, tìm tòi, đề ra đường lối đổi mới đất nước. Nhờ đó, “đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa… bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi”3. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng xác định: “Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân”4. Đồng thời, giải quyết hài hòa quan hệ lợi ích giữa các thành viên trong xã hội, lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và toàn xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, bảo đảm mỗi người dân đều được thụ hưởng những thành quả của cách mạng, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng căn cứ kháng chiến.

Ba là, đa dạng hóa các hình thức tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân. Trước Cách mạng Tháng Tám, sự ra đời của Mặt trận Việt Nam Độc lập Đồng Minh (Việt Minh), với tuyên ngôn: Việt Minh “chủ trương liên hiệp hết thảy các tầng lớp nhân dân, không phân biệt tôn giáo và xu hướng chính trị nào, giai cấp nào, đoàn kết chiến đấu để đánh đuổi Pháp - Nhật giành độc lập”5, đã đánh dấu một bước ngoặt trong đường lối lãnh đạo cách mạng của Đảng. Về tổ chức, Mặt trận Việt Minh được tổ chức theo hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Ngoài những đoàn thể cứu quốc có tính chất chính trị, cách mạng, như: Phụ nữ cứu quốc, Thanh niên cứu quốc, Nông dân cứu quốc,... còn có những hội, đoàn thể không có điều lệ, hoạt động công khai và bán công khai, như: Hội Cứu tế thất nghiệp, Hội Tương tế, Hội Hiếu hỉ, Nhóm Học quốc ngữ, Nhóm Đọc sách v.v. Với chủ trương đúng đắn, mục tiêu cụ thể và phương thức tổ chức đa dạng, phong phú, Mặt trận Việt Minh đã trở thành hạt nhân quy tụ, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân đứng vào hàng ngũ của mình để giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức, nô lệ của thực dân Pháp và phát xít Nhật, đáp ứng khát vọng cháy bỏng của các tầng lớp nhân dân là làm cho mỗi người được quyền sống trong một đất nước độc lập, tự do, dân chủ, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Để tuyên truyền rộng rãi chủ trương của Đảng, chính sách của Việt Minh, nhất là sau Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám, Đảng đã cho ra đời một loạt báo, như: Tạp chí Cộng sản, Việt Nam độc lập, Cứu Quốc, Giải phóng, Cờ giải phóng, Tiền phong v.v. Các địa phương đẩy mạnh tuyên truyền miệng, thông qua nói chuyện, hát, vè, thơ,… dùng các khẩu hiệu đấu tranh, như: “Ruộng đất cho dân cày”, “tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội cách mạng”, “đánh đuổi phát-xít Nhật - Pháp”, “độc lập̣ dân tộc”, v.v. Các khẩu hiệu là sự vận dụng linh hoạt, sáng tạo với tình hình thực tế của cách mạng nước ta lúc bấy giờ, bảo đảm vừa cụ thể hóa đường lối, vừa thể hiện tập̣ trung, cô đọng nhất mục tiêu đấu tranh của nhân dân ta. Do vậy, các chủ trương của Đảng đã nhanh chóng được phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân, động viên họ tích cực tham gia cuộc đấu tranh từ thành thị đến nông thôn, từ nhà máy, đồn điền, hầm mỏ đến các làng mạc, thôn xóm.

Vận dụng bài học này trong giai đoạn cách mạng hiện nay, các cấp, các ngành cần đổi mới, đa dạng hóa các hình thức vận động quần chúng nhân dân. Trước hết, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc6 nói riêng, về đường lối, chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, tạo sự đồng thuận cao về nhận thức và hành động trong toàn xã hội. Chăm lo xây dựng Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vững mạnh, đóng vai trò nòng cốt trong tập hợp, vận động nhân dân. Việc xây dựng Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp phải bảo đảm tính đại diện, tiêu biểu và thiết thực; xây dựng Ban Thường trực, tham mưu, giúp việc năng động, sáng tạo, hiệu quả; phát huy tốt vai trò đội ngũ cán bộ không chuyên trách và lực lượng cộng tác viên là những người tiêu biểu, có uy tín, năng lực và tình nguyện đóng góp cho công tác Mặt trận ở các cấp. Về nội dung và phương thức hoạt động, cần thực hiện theo phương châm: Hướng mạnh về cơ sở, tập trung vào những vấn đề cơ bản, nhu cầu bức thiết của nhân dân; thực hiện tốt quy chế phối hợp công tác với chính quyền các cấp, phát huy quyền làm chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng, vai trò giám sát của nhân dân trong tham gia xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, gắn với xây dựng nền an ninh nhân dân v.v. Quan tâm chăm lo các tổ chức thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam vững mạnh, như: Thanh niên, Công đoàn, Phụ nữ, Nông dân, Cựu chiến binh, các hội nghề nghiệp; đồng thời, mở rộng tổ chức, phát triển thành viên vào Mặt trận Tổ quốc để tập hợp, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực hiện tốt công tác vận động, tập hợp và phát huy vai trò của người có uy tín, lực lượng cốt cán trong cộng đồng dân cư, đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào tôn giáo; bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp, truyền thống của dân tộc, đi đôi với loại trừ các hủ tục, mê tín dị đoan.

Các cấp ủy đảng và chính quyền cần đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động: “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Ngày vì người nghèo”, phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”, chăm lo cuộc sống của các gia đình chính sách, người có công với cách mạng, nạn nhân chất độc da cam/dioxin, trợ giúp nhân dân khắc phục thiên tai v.v. Nhiệm vụ quan trọng là phải thực hiện thắng lợi các chương trình, kế hoạch kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; thực hiện tốt Quy chế Dân chủ ở cơ sở,… là những hình thức thiết thực để tập hợp, khơi dậy truyền thống đoàn kết, gắn bó giữa các tầng lớp nhân dân ở cộng đồng dân cư. Kiên quyết đấu tranh với những âm mưu, thủ đoạn tìm cách chia rẽ nội bộ nhân dân, chia rẽ Đảng với nhân dân, nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc,… của các thế lực thù địch.

Bốn làphát huy vai trò của Quân đội nhân dân Việt Nam trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Để chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa giành chính quyền, ngày 22-12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Chỉ thị nêu rõ: “Tên: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Nghĩa là chính trị trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền”7. Thực hiện Chỉ thị đó, hơn 70 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam luôn thực hiện tốt chức năng: Đội quân chiến đấu, đội quân công tác, đội quân lao động sản xuất; cán bộ, chiến sĩ luôn tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tích cực tham gia xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gắn bó máu thịt với nhân dân. Ngay trong quá trình chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa, lực lượng vũ trang giữ vai trò nòng cốt, tiên phong trong tuyên truyền, vận động nhân dân, tạo động lực mạnh mẽ cho quần chúng nổi dậy. Với nhiệm vụ “vận dụng vũ trang tuyên truyền để kêu gọi toàn dân đứng dậy, chuẩn bị cơ sở chính trị và quân sự cho cuộc khởi nghĩa sau này”8, lực lượng vũ trang đã góp phần giúp nhân dân nhận rõ kẻ thù của cách mạng, thời cơ, mục tiêu, phương pháp Tổng khởi nghĩa; làm cho họ hiểu được chính quyền cách mạng là của ai, vì ai. Đồng thời, kiên quyết đấu tranh, vô hiệu hóa các tổ chức phản động, chống phá cách mạng; làm nòng cốt cho quần chúng nhân dân nổi dậy đấu tranh giành chính quyền, v.v. Điều đó cho thấy, lực lượng vũ trang có vai trò quan trọng trong phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để đưa cuộc cách mạng đến thắng lợi.

Kế thừa và vận dụng sáng tạo bài học kinh nghiệm đó, ngày nay, Đảng, Nhà nước tiếp tục quan tâm chăm lo xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, thực sự là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Cán bộ, chiến sỹ Quân đội nhân dân Việt Nam cần nhận thức đầy đủ, sâu sắc vị trí, vai trò của mình, luôn tích cực tu dưỡng, rèn luyện, thực hiện tốt Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”, không ngừng làm cho phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” luôn được phát huy và tỏa sáng trong lòng nhân dân. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Ở từng cơ quan, đơn vị cần tăng cường công tác dân vận, tích cực tham gia các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của địa phương; thực hiện tốt chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng trong tình hình mới; tham gia phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng, v.v. Qua đó, góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường tình đoàn kết quân dân, thực hiện quân với dân một ý chí.

Xây dựng và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Các bài học trên đến nay vẫn còn nguyên giá trị; các cấp, các ngành cần vận dụng sáng tạo, hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Thượng tướng NGUYỄN TRỌNG NGHĨA,
Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân

Xuân Đức (st)

Chú thích

1 - Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ sáu (Khóa I) họp tháng 11-1939; lần thứ bảy họp tháng 11 năm 1940; lần thứ tám họp tháng 5-1941.

2 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 113.

3 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 65-66.

4 - Sđd, tr. 160.

5 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H. 2000, tr. 149.

6 - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011); Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng; Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Khóa VII) “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; “Về công tác dân tộc”; “Về công tác tôn giáo”, v.v.

7 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 3, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 539.

8 - Sđd, tr. 539.

Bài viết khác: