Ảnh minh họa. Ảnh: tuyengiao.vn
Gắn bó mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng là chủ trương nhất quán của Đảng ta, đồng thời là một vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng ta đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; khi Nhà nước ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; khi công tác chống suy thoái trong nội bộ một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị đang có những vấn đề đáng lo ngại thì việc phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó có vấn đề giám sát cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống
Trên cơ sở nhận thức rõ việc phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng là một trong những cách thức hữu hiệu hướng đến củng cố và phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, tăng cường niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là từ Đại hội VI đến nay, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị quyết lớn và các quy định có liên quan để không ngừng phát huy quyền làm chủ của nhân dân cũng như phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Sớm nhất có thể kể đến Chỉ thị 30-CT/TƯ ngày 18/02/1998 “Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở” với các nội dung: Xây dựng cơ chế để nhân dân tham gia ý kiến vào các chủ trương, chính sách về công tác cán bộ của chính quyền, cơ quan, đơn vị; hoàn thiện cơ chế để nhân dân trực tiếp hoặc thông qua Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể, ban thanh tra nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của chính quyền, thủ trưởng cơ quan đơn vị; xác định trách nhiệm của tổ chức chính quyền, thủ trưởng cơ quan, đơn vị cơ sở định kỳ (3 tháng, 6 tháng, 1 năm) báo cáo công việc trước dân, phải tự phê bình và tổ chức để nhân dân góp ý kiến, đánh giá, phê bình, từ đó nghiêm túc tiếp thu những ý kiến đóng góp của người dân.
Tiếp đó là Quy định số 290-QĐ/TƯ ngày 25/02/2010 “Về việc ban hành quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị”; Quyết định số 217-QĐ/TƯ ngày 12/12/2013 “Về việc ban hành quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội”; Quyết định số 218-QĐ/TƯ ngày 12/12/2013 “Ban hành quy định về việc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”, trong đó quy định rõ: Góp ý đối với đảng viên về phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống và vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, mối quan hệ giữa đảng viên với nhân dân; góp ý đối với cán bộ chính quyền, đoàn thể về việc thực hiện chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện nghĩa vụ công dân; về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và trách nhiệm nêu gương, trách nhiệm thực thi công vụ của cán bộ, công chức, viên chức, nhất là người đứng đầu cơ quan Nhà nước, chính quyền các cấp. Các hình thức góp ý gồm góp ý định kỳ, góp ý thường xuyên, góp ý đột xuất.
Gần đây nhất có thể kể đến Nghị quyết số 25-NQ/TƯ ngày 03/6/2013 về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”, Nghị quyết số 04-NQ/TƯ ngày 30/10/2016 “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”; Quyết định số 99-QĐ/TƯ ngày 03/10/2017 của Ban Bí thư về việc “Ban hành hướng dẫn khung để các cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, đặc biệt là Quy định số 124-QĐ/TƯ ngày 02/02/2018 “Về giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”, trong đó quy định nhân dân thực hiện quyền giám sát gián tiếp (thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội) và giám sát trực tiếp (thông qua phản ánh, kiến nghị đến cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và cơ quan có thẩm quyền về những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên).
Trên cơ sở các chủ trương, nghị quyết của Đảng, Nhà nước đã cụ thể hóa thành các quy định của pháp luật để bảo đảm thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong giám sát hoạt động của các cơ quan công quyền như: “Pháp lệnh Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn”, “Luật Khiếu nại, tố cáo”, “Luật Phòng chống tham nhũng”, “Luật Tiếp công dân”, “Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”…
Quá trình triển khai trên thực tế cho thấy những hiệu ứng tích cực, đó là những cán bộ suy thoái về đạo đức, lối sống ở cả cấp Trung ương và cơ sở đã được phát hiện, uốn nắn, xử lý kịp thời; đã xuất hiện những cách làm hay, mang lại hiệu quả cao như: Định kỳ tổ chức đối thoại trực tiếp giữa người đứng đầu cấp ủy với nhân dân; tổ chức lấy ý kiến nhận xét của cấp ủy nơi cư trú đối với cán bộ, đảng viên trước khi kiểm điểm tại tổ chức đảng thông qua việc thực hiện Quy định 76-QĐ/TƯ và tự phê bình trước dân đối với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền và những cán bộ trực tiếp giải quyết công việc có liên quan đến người dân.
Các hình thức để nhân dân thực hiện quyền giám sát cán bộ, đảng viên thực hiện tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống cũng được đa dạng hóa như: Thùng thư góp ý đặt tại trụ sở; trang thông tin điện tử, email, đường dây nóng hoặc phản ánh lên các cơ quan báo chí hoặc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội… Đây là những kết quả bước đầu nhưng hết sức quan trọng, tạo sự phấn khởi, tin tưởng của đông đảo người dân về sự lãnh đạo của Đảng, về sự nghiêm minh của kỷ luật Đảng, của pháp luật; có tác dụng to lớn trong việc thúc đẩy hơn nữa sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Tuy nhiên cũng còn những hạn chế khi mà tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi, có mặt, có bộ phận còn diễn biến tinh vi, phức tạp hơn; tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn còn nghiêm trọng, tập trung vào số đảng viên có chức vụ trong bộ máy nhà nước, thêm vào đó là tình hình mâu thuẫn, mất đoàn kết nội bộ không chỉ ở cấp cơ sở mà cả ở một số cơ quan Trung ương, tập đoàn kinh tế, tổng công ty.
Trong nhiều nguyên nhân của tình trạng này được Hội nghị lần thứ 4, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chỉ ra thì có nguyên nhân đến từ sự yếu kém trong việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên, cụ thể là, việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao. Nguyên do là ở một số nơi, người dân còn e ngại và né tránh việc góp ý, phê bình cán bộ, đảng viên; không dám tố giác những vụ, việc cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực, vi phạm pháp luật vì sợ bị trù dập, bị gây khó dễ khi phải đến các cơ quan công quyền giải quyết công việc cá nhân, gia đình. Một nguyên nhân khác là do chủ nghĩa cá nhân chi phối nên nhận thức và hành động không cùng song hành, dẫn tới nảy sinh vấn đề vi phạm quyền làm chủ của nhân dân; ngại tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, thiếu trách nhiệm trong giải quyết các công việc, yêu cầu bức xúc của người dân; không tổ chức để nhân dân đối thoại, góp ý với cán bộ, đảng viên theo quy định; không thực hiện công khai theo quy định để nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên.
Những hạn chế trên đã khiến cho quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay ở không ít nơi chưa đạt được yêu cầu đề ra, ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với Đảng, đòi hỏi trong thời gian tới cần có những giải pháp để khắc phục.
Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong giám sát cán bộ, đảng viên
Thứ nhất, nâng cao nhận thức cho người dân về quyền tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền ngày càng trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học - công nghệ, sự phát triển nhanh chóng của internet và số lượng người dùng điện thoại có kết nối mạng không ngừng tăng lên, không phân biệt thành thị và nông thôn, vấn đề tạo lập các kênh thông tin để người dân được tiếp cận và qua đó, thực hiện các hành vi giám sát của họ đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên thuận lợi hơn nhiều, do vậy, vấn đề cần làm là lựa chọn nội dung và phương thức truyền tải phù hợp với từng đối tượng người dân ở từng địa bàn dân cư để họ có cơ sở thực hiện quyền giám sát.
Bên cạnh đó, cần làm cho người dân hiểu rằng, cán bộ được trả lương là để phục vụ người dân, phụng sự đất nước, đó là quyền được hưởng, đồng thời cũng là nghĩa vụ của cán bộ, đảng viên. Vì vậy, khi phát hiện thấy cán bộ, đảng viên vi phạm đạo đức, lối sống cần báo ngay cho các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền; không nên bồi dưỡng, lót tay cho cán bộ bằng phong bao, phong bì để được giải quyết công việc. Nếu mỗi người dân không nhận thức được điều này thì chẳng những họ không thực hiện được quyền giám sát của mình mà còn góp phần làm hư hỏng cán bộ.
Thứ hai, nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy đảng, người đứng đầu chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và cán bộ, công chức, viên chức trong thực hiện các quy định của Đảng và Nhà nước về phát huy dân chủ, dựa vào dân để xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Nhận thức của người dân về quyền giám sát đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên có tốt hay không, ngoài sự chủ động của chính người dân trong việc tìm hiểu và tiếp cận các thông tin có liên quan thì còn phụ thuộc vào hoạt động phổ biến, thực hiện các nội dung về quyền giám sát của nhân dân trong các văn bản của Đảng và Nhà nước của các cơ quan công quyền; của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội; của cán bộ, công chức, viên chức. Do đó, cần nâng cao nhận thức của đội ngũ này về trách nhiệm của họ trong việc công khai và thực hiện nghiêm các quy định để nhân dân thực hiện quyền giám sát, trước hết là 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống theo Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XII; các quy định về công khai tài sản ở nơi cư trú, công khai chuẩn mực đạo đức công vụ gắn với vị trí công việc; tổ chức có hiệu quả hội nghị tiếp dân định kỳ; trách nhiệm trong tiếp nhận và xử lý các thông tin kiến nghị, phản ánh của người dân có liên quan đến vấn đề tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên ở cơ quan, đơn vị, địa phương mình; khắc phục tình trạng làm đối phó, làm cho xong chuyện, không quan tâm tới hiệu quả như ở một số nơi thời gian qua.
Thứ ba, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để tăng cường hơn nữa các kênh thông tin tiếp nhận phản ánh của người dân; nâng cao trách nhiệm giải trình của cán bộ, đảng viên, nhất là người có chức, có quyền, trực tiếp giải quyết các công việc có liên quan đến người dân.
Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các cơ chế, chính sách để tăng cường hơn nữa các kênh thông tin tiếp nhận phản ánh của người dân về những cán bộ suy thoái, thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; đặc biệt là các quy định về quyền làm chủ trực tiếp của người dân như quyền được phản ánh, kiến nghị của người dân thông qua các trang mạng xã hội và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân phải tiếp nhận các thông tin ấy. Cần nghiên cứu việc tiếp nhận và xử lý ở một mức độ nhất định các đơn thư nặc danh có địa chỉ, có bằng chứng gửi kèm. Điều này đặc biệt quan trọng trong điều kiện các cơ chế bảo vệ người dân đấu tranh với tham nhũng còn yếu, trong khi các hiện tượng trù dập người tố cáo dưới nhiều hình thức tinh vi như hiện nay vẫn chưa có dấu hiệu giảm mạnh.
Bên cạnh đó, cần nâng cao trách nhiệm giải trình của cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ trực tiếp giải quyết các công việc có liên quan đến người dân để họ có cơ sở cần thiết giúp cho hoạt động giám sát diễn ra thường xuyên, chặt chẽ, đúng nội dung, kịp thời và có hiệu quả. Bởi thực tế có nhiều trường hợp người dân tố cáo nhưng phản hồi trở lại đến người dân của các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền, trách nhiệm gần như không có hoặc chất lượng thấp, do mới chỉ chú ý đến giải trình bị động (khi có yêu cầu của cơ quan chức năng hoặc dưới áp lực của dư luận) nên dễ phát sinh tình trạng “đánh trống bỏ dùi”, khiếu nại vượt cấp hoặc tố cáo nặc danh do người dân không tin vào việc giải quyết của cơ quan chức năng hoặc do họ sợ bị trả thù, trù dập.
Thứ tư, có hình thức khen thưởng, động viên kịp thời đối với những người dân kịp thời phát hiện, tố cáo các vụ, việc sai phạm của cán bộ, đảng viên; đồng thời xử lý nghiêm khắc những trường hợp cố tình trù dập người tố cáo.
Giám sát cán bộ, đảng viên là một việc làm cần thiết nhưng không dễ dàng thực hiện, do đó cần phải có cơ chế khen thưởng, động viên kịp thời để khuyến khích người dân giám sát những việc làm sai trái trong đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, cũng là để nhân lên những hành động đẹp, những tấm gương đẹp. Thực tế nhiều năm qua, đã có nhiều cá nhân được khen thưởng, được tôn vinh vì tố cáo tham nhũng cùng những hành vi trái pháp luật của cán bộ, đảng viên, nhưng cũng có không ít người phải đổ mồ hôi, công sức thậm chí tiền bạc để tố cáo những sai phạm. Vì vậy, cần có những biện pháp linh hoạt hơn của người đứng đầu địa phương, đơn vị nơi có người dân dám đứng lên chống tiêu cực, để người dân thấy họ được quan tâm, được cộng đồng ghi nhận, được bảo vệ bởi những người có trách nhiệm./.
Hà Sơn
Học viện Chính trị Khu vực IV
Theo Tạp chí Cộng sản
Đức Lâm (st)