Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ngày 03-02-1930 là sự kiện lịch sử đặc biệt, kết thúc sự khủng hoảng, bế tắc của các phong trào cứu nước trước đó, mở ra bước phát triển mới cho cách mạng Việt Nam có sự lãnh đạo của một Đảng chân chính cách mạng. Đảng được vũ trang lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, đề ra cương lĩnh, đường lối đúng đắn, có hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở, với những chiến sĩ cộng sản trung kiên, tiêu biểu cho ý chí giải phóng giai cấp và dân tộc. Ngay từ đầu, Đảng đã hội tụ bản chất khoa học và cách mạng, bảo đảm sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Suốt 90 năm qua, Đảng đã tập hợp, giác ngộ, đoàn kết giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc, tiến hành sự nghiệp đấu tranh giành chính quyền, giành độc lập, giải phóng dân tộc, xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Những thắng lợi của cách mạng, dù quy mô, ảnh hưởng khác nhau, ý nghĩa toàn quốc hay ở từng địa phương, từng lĩnh vực đều không tách rời sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, của các cơ quan lãnh đạo của Đảng, các tổ chức đảng và vai trò của cán bộ, đảng viên. Lịch sử lãnh đạo, đấu tranh của Đảng thật sự “là cả một pho lịch sử bằng vàng”, là những thắng lợi vĩ đại có ý nghĩa lịch sử và thời đại.
Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo, trước hết, Đảng phải được trang bị và không ngừng nâng cao trình độ lý luận, nền tảng tư tưởng vững chắc, như V.I. Lênin đã nhấn mạnh: Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng, chỉ đảng nào có lý luận tiền phong hướng dẫn mới làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam”1. Trên cơ sở lý luận khoa học, quy luật khách quan và yêu cầu của thực tiễn, Đảng hoạch định cương lĩnh, đường lối bảo đảm cho cách mạng phát triển theo đúng phương hướng chiến lược và mục tiêu cụ thể của mỗi thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Lãnh đạo bằng cương lĩnh, đường lối là vấn đề căn bản và rất quan trọng bảo đảm thắng lợi. Quá trình lãnh đạo cũng là quá trình hiện thực hóa đường lối đòi hỏi không ngừng nâng cao trình độ tổ chức và chỉ đạo thực tiễn rất phong phú theo quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. Lãnh đạo cách mạng là nhận thức rõ và xử lý đúng đắn các mối quan hệ lớn, rèn luyện bản lĩnh chính trị, tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, củng cố niềm tin vào thắng lợi. Lãnh đạo đúng đắn đòi hỏi phải gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường chú trọng công tác dân vận và trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên.
Bảo đảm cho sự phát triển của toàn bộ sự nghiệp cách mạng, Đảng đã xây dựng những cương lĩnh mang tính chiến lược. Cương lĩnh chính trị đầu tiên (02-1930) xác định mục tiêu “Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập”, “Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”2. Luận cương chính trị (10-1930) chủ trương “Phát triển, bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”3. Luận cương cách mạng Việt Nam (02-1951) khẳng định hoàn thành giải phóng dân tộc, phát triển dân chủ nhân dân, tiến tới chủ nghĩa xã hội. Đại hội VII của Đảng (6-1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và Cương lĩnh được bổ sung, phát triển năm 2011. Cụ thể hóa quan điểm của các cương lĩnh, Đảng chú trọng làm rõ những đường lối và chủ trương lớn: Hoàn thiện đường lối cách mạng giải phóng dân tộc dẫn tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945; bảo vệ thành quả cách mạng và chính quyền nhân dân (1945 - 1946); đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ; đường lối cách mạng miền Nam và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc (1954 - 1975) và trên cả nước sau năm 1975; đường lối đổi mới.
Tính khoa học và hiện thực của cương lĩnh, đường lối phản ánh đúng nguyện vọng, lợi ích của giai cấp, dân tộc và nhân dân, xuất phát từ đặc điểm, hoàn cảnh, thực tiễn của đất nước và dựa trên quy luật khách quan. Trong cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm”, “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”4.
Trong lãnh đạo kháng chiến giải phóng dân tộc, Đảng luôn chú trọng tổng kết thực tiễn, kế thừa truyền thống giữ nước của dân tộc, kết hợp với nghiên cứu lý luận, không ngừng phát triển khoa học, nghệ thuật quân sự Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh. Đó là nền tảng căn bản về đường lối quân sự của Đảng trong hai cuộc kháng chiến để có thể chiến thắng những thế lực đế quốc, thực dân xâm lược mạnh nhất trong thế kỷ XX. Nhờ đường lối kháng chiến đúng đắn, chiến lược, sách lược và phương pháp cách mạng sáng tạo mới có thể “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” như chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội sau năm 1975 có được những thành tựu quan trọng bảo đảm cho đất nước đứng vững trước sự phá hoại, cấm vận của các thế lực bên ngoài, giành thắng lợi trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tổ quốc, cứu dân tộc Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và giúp bạn hồi sinh đất nước. Đó là thắng lợi có tầm quan trọng đặc biệt. Song, cần thấy rõ, cách mạng xã hội chủ nghĩa thời kỳ này đã bộc lộ những yếu kém, sản xuất trì trệ, lạm phát gia tăng và từ năm 1979 rơi vào khủng hoảng, đời sống nhân dân khó khăn. Từ thực trạng đó, Đại hội VI của Đảng (12-1986) đã tự phê bình nghiêm túc với thái độ “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Đồng thời, chỉ ra “Những sai lầm nói trên là những sai lầm nghiêm trọng và kéo dài về chủ trương, chính sách lớn, sai lầm về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện”5. Đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, bắt nguồn từ khuynh hướng tư tưởng chủ yếu “là bệnh chủ quan duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan”. Đại hội nêu rõ những bài học rất quan trọng trong lãnh đạo, trong đó nhấn mạnh bài học: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”6. Đường lối đổi mới, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đã quán triệt sâu sắc bài học quan trọng đó.
Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng còn thể hiện ở bản lĩnh chính trị vững vàng, có những quyết sách kịp thời ở những thời điểm quyết định của lịch sử, bảo đảm giành thắng lợi và phát triển đúng định hướng. Đảng đã tranh thủ thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua thách thức. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã chọn đúng thời cơ khi cao trào cách mạng phát triển đến đỉnh cao, toàn Đảng thống nhất ý chí, hành động và quân Nhật đầu hàng đã tiến hành tổng khởi nghĩa kịp thời đẩy lùi nguy cơ quân Pháp quay lại và quân Đồng minh kéo vào. Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và Chiến thắng Điện Biên Phủ (07-5-1954) có ý nghĩa quyết định đến việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-ve (21-7-1954). Trung ương và Bộ Chính trị quyết định tiến công địch trên toàn chiến trường năm 1972 và Chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không” 12 ngày đêm cuối tháng 12-1972 đã buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định Pa-ri (27-01-1973) rút hết quân Mỹ về nước (29-3-1973). Những quyết sách của Bộ Chính trị quyết tâm giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975 - 1976, rồi quyết định giải phóng trong năm 1975 và quyết định giải phóng hoàn toàn miền Nam trong tháng 4-1975, đã động viên ý chí toàn quân, toàn dân đi đến thắng lợi hoàn toàn (30-4-1975). Bản lĩnh của Đảng còn thể hiện ở thẳng thắn tự phê bình, quyết tâm và dứt khoát phải đổi mới, đề ra đường lối đổi mới tại Đại hội VI. Đổi mới là mệnh lệnh của cuộc sống, là vấn đề sống còn. Trong quá trình lãnh đạo đổi mới, Đảng quyết tâm đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, đồng thời vượt qua những thách thức, khủng hoảng từ bên ngoài tác động tiêu cực vào Việt Nam.
Sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên nêu cao tinh thần tiên phong, gương mẫu, đức hy sinh, trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về trình độ, phẩm chất, đạo đức và phương pháp cách mạng để tổ chức, hướng dẫn quần chúng, hiện thực hóa đường lối của Đảng. Sinh thời, Hồ Chí Minh vẫn nhắc, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Đó là trách nhiệm nêu gương, là thống nhất giữa nói và làm. Người cũng nhấn mạnh, cán bộ, đảng viên phải đặt việc chung lên trên hết, trước hết, “dĩ công vi thượng”. Trong cách mạng giải phóng dân tộc, kháng chiến, cán bộ, đảng viên luôn có mặt ở những nơi khó khăn, gian khổ nhất, chấp nhận hy sinh kể cả tính mạng, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, biết bao đảng viên, cán bộ của Đảng đã anh dũng hy sinh. Trong hòa bình, xây dựng đất nước càng cần sự gương mẫu, biết hy sinh lợi ích riêng, không tham nhũng, lãng phí, xa dân. Hiện nay, Đảng chú trọng thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa XII) về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược ngang tầm nhiệm vụ. Chủ động sàng lọc đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng, nâng cao chất lượng kết nạp đảng viên mới; xây dựng Đảng về đạo đức gắn với xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Những nhiệm vụ quan trọng đó, nhằm làm cho Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Tiến tới Đại hội XIII của Đảng, tổng kết 35 năm đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 10 năm thực hiện Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm qua, Đảng tiếp tục làm rõ nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phát triển sáng tạo đường lối và chiến lược phát triển đất nước với tầm nhìn tới năm 2030 và 2045, nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, mạnh, bền vững theo con đường xã hội chủ nghĩa./.
PGS, TS. Nguyễn Trọng Phúc
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Phương Thúy (st)
1 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 289.
2 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 2, Nxb CTQG, H. 1998, tr. 02.
3 - Sđd, tr. 94.
4 - Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 11, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 92.
5 - ĐCSVN - Văn kiện Đảng Toàn tập, Tập 47, Nxb CTQG, H. 2006, tr. 360.
6 - Sđd, tr. 363.