Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là chiến thắng vang dội chiến dịch Hồ Chí Minh là một trong những chiến công vĩ đại nhất của lịch sử cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX. Thắng lợi đó, là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, như: Thời cơ, thế trận, lực lượng… được tích tụ qua các giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, song hơn tất cả đó chính là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Lao động Việt Nam, phương thức tác chiến và hoạt động chỉ đạo, điều hành chiến tranh được phát triển đến trình độ cao. Trong đó, sự kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo sức mạnh tổng hợp đánh bại kẻ thù xâm lược và tay sai cả về quân sự, chính trị, ngoại giao được Đảng ta nâng lên thành nghệ thuật, trở thành một trong những nhân tố quan trọng quyết định đến thắng lợi cuộc trường chinh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam, được kết thúc bằng trận quyết chiến chiến lược - chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Ghi nhận về thành quả của sự kết hợp này, Báo cáo Chính trị Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV (năm 1976) đã nêu rõ: “Nhờ kết hợp sức mạnh của nhân dân ta với sức mạnh của thời đại, nhờ đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng, chúng ta đã tranh thủ được sự ủng hộ rất to lớn về tinh thần và vật chất của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của tất cả các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo thành mặt trận quốc tế rộng lớn chưa từng có ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược”1. Bài học kinh nghiệm về kết hợp giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong chiến dịch Hồ Chí Minh đến nay vẫn còn nguyên giá trị, đã và đang được tiếp tục nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau những thắng lợi giòn rã của các đòn tiến công chiến lược vào Tây Nguyên và Huế - Đà Nẵng, Quân đoàn 1, Quân đoàn 2 ngụy bị xóa sổ, hệ thống chính quyền ngụy ở Quân khu 1, Quân khu 2 bị đập tan. Ta đã giải phóng một dải đất rộng lớn2 chiếm đến 3/4 đất đai và gần 1/2 dân số miền Nam. Một cục diện mới chưa từng có đã mở ra, lực lượng quân sự, lực lượng chính trị và thế chiến lược của ta áp đảo toàn diện địch, thời cơ giải phóng hoàn toàn miền Nam đã chín muồi. Trước tình hình đó, Đảng ta đã kịp thời đề ra chủ trương lãnh đạo toàn quân, toàn dân với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, huy động cao độ sức mạnh của cả dân tộc vào trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, thực hiện thắng lợi mục tiêu “đánh cho ngụy nhào”, “kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay”3. Về phía địch, mặc dù bị rệu rã về tinh thần, song với lực lượng, phương tiện chiến tranh còn khá đông4, chúng tập trung dồn hết sức lực và những cố gắng cuối cùng, vội vã điều chỉnh thế trận phòng thủ, cố giữ các địa bàn còn lại ở Cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ, trong đó có Sài Gòn - Trung tâm đầu não chế độ ngụy quyền, hòng kéo dài cuộc chiến để có thêm thời gian cầu cứu sự viện trợ và hành động can thiệp từ phía Mỹ. Theo đó, cùng với việc gấp rút lập tuyến phòng ngự mạnh từ xa ở Phan Rang, thì tại Sài Gòn, địch đã bố trí nhiều lực lượng khống chế các đường và cầu lớn dẫn vào thành phố từ mọi hướng5. Đặc biệt, trên các đường về Sài Gòn, địch bố trí vật chướng ngại để ngăn chặn bộ binh và xe tăng ta. Trung tâm Sài Gòn - Gia Định do một số đơn vị lính dù, quân biệt động, thiết giáp, các lực lượng bảo vệ căn cứ, các lực lượng thuộc biệt khu Thủ đô phòng giữ, cùng 03 sư đoàn không quân trực tiếp chi viện cho các hoạt động tác chiến của chúng ở khu vực Sài Gòn - Gia Định.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc vào tiến hành trận quyết chiến đánh thẳng vào sào huyệt cuối cùng của chế độ Sài Gòn, tiêu diệt toàn bộ ngụy quân, đập tan hoàn toàn bộ máy cai trị ngụy quyền, giành thắng lợi quyết định kết thúc chiến tranh, trong phiên họp ngày 30/3 và ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị đã chính thức hạ quyết tâm mở chiến dịch quy mô lớn, có ý nghĩa lịch sử mang tên Bác - Chiến dịch Hồ Chí Minh. Đây thực sự là sự lựa chọn sáng suốt của Đảng, bởi đó không chỉ khẳng định sự chính xác về tính chất, loại hình tác chiến khi cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc ta bước vào thời điểm cuối, mà tên Chiến dịch còn là biểu tượng để tập hợp sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc cho thắng lợi của Chiến dịch. Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng sức mạnh dân tộc được phát huy mạnh mẽ, trở thành nhân tố chủ yếu, quyết định đến thắng lợi vĩ đại, được đánh dấu bằng mốc son lịch sử chói lọi ngày 30/4/1975. Điều đó được thể hiện rất rõ thông qua sự vận dụng sáng tạo trong lựa chọn chính xác và tiến hành thành công phương thức tác chiến chiến lược, cũng như cách đánh Chiến dịch; là lực lượng và thế trận; là tư tưởng chỉ đạo “thần tốc, thần tốc hơn nữa. Táo bạo, táo bạo hơn nữa” và tinh thần “quyết chiến, quyết thắng”, v.v.
Thực tiễn cho thấy, trước giờ mở đầu chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, quân và dân ta đã xây dựng được một thế trận vững vàng và độc đáo của chiến tranh nhân dân. Các lực lượng vũ trang của ta (gồm: 04 quân đoàn chủ lực và Binh đoàn 232 (tương đương quân đoàn, trực thuộc Miền), các đơn vị bộ đội địa phương, các đội biệt động, các tổ chức dân quân tự vệ, an ninh vũ trang và một lực lượng lớn bộ đội đặc công) không những đã đứng vững trên các địa bàn trọng yếu xung quanh Sài Gòn, mà còn bám trụ ngay cả ở vùng ven và sâu trong nội thành. Đối với lực lượng chính trị của quần chúng ngày càng phát triển trong nội đô đã có nhiều kinh nghiệm đấu tranh chống địch dưới nhiều hình thức, lúc này lại có hàng ngàn cán bộ vừa mới tăng cường hướng dẫn chuẩn bị đấu tranh phối hợp với đòn tiến công lớn của quân chủ lực. Quá trình Chiến dịch diễn ra, ta đã vận dụng sáng tạo, linh hoạt các thủ đoạn tác chiến, phối hợp rất chặt chẽ giữa tiến công quân sự với nổi dậy giành quyền làm chủ của nhân dân; kết hợp chặt chẽ giữa tiến công quân sự với đấu tranh chính trị, binh vận. Bằng các đòn tiến công thần tốc, táo bạo và dũng mãnh của 05 cánh quân, các quân đoàn chủ lực của ta trên từng hướng đã hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng vũ trang tại chỗ lần lược tiêu diệt các mục tiêu chiến lược, chiến dịch của địch, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân trong vùng địch kiểm soát anh dũng vùng lên đấu tranh giành chính quyền, vận động binh sĩ ngụy hạ vũ khí quay về với nhân dân, bảo vệ các cơ sở hạ tầng xã hộị, v.v.. Đây là một trong những minh chứng rõ nét cho thành công của việc phát huy sức mạnh dân tộc, ý chí tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” trong tiến công địch, giành thắng lợi cho Chiến dịch.
Tuy nhiên, thắng lợi to lớn Chiến dịch Hồ Chí Minh sẽ không đầy đủ, nếu ta không đánh giá được sự tác động tích cực của yếu tố thời đại. Đó là xu thế hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới lúc bấy giờ đã và đang phát triển mạnh mẽ; tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa từng bước được khẳng định; sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, nhất là Liên Xô và Trung Quốc; sự đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung của 3 nước Đông Dương, v.v. Bằng đường lối ngoại giao linh hoạt, sắc sảo, Đảng ta đã hoàn thành xuất sắc trên mặt trận đối ngoại, tranh thủ mọi nguồn lực từ bên ngoài để tăng cường sức mạnh đánh thắng địch. Với chủ trương đẩy lùi khả năng Mỹ can thiệp trở lại, ta đã thông qua các tổ chức tiến bộ, các nhân vật nổi tiếng ở Mỹ, các tổ chức quốc tế để tác động đến nhân dân Mỹ chống lại sự dính líu và can thiệp của Chính phủ họ vào công việc nội bộ của nhân dân Việt Nam; làm phân hóa ngụy với Mỹ và khả năng Mỹ và các thế lực nước lớn tìm cách cản trở ta giải phóng miền Nam. Đối với phong trào nhân dân thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh của nhân dân ta trong những ngày này tuy không sôi nổi như giai đoạn trước khi Mỹ rút quân khỏi Việt Nam nhưng vẫn mạnh mẽ và có sức thu hút trên toàn thế giới bởi những diễn biến quá mau lẹ trên chiến trường. Ngày 27 tháng 3 năm 1975, Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Phần Lan ra tuyên bố khẳng định sự ủng hộ đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam và nhân dân Campuchia. Chính phủ Anbani cũng ra tuyên bố: “Trong bất kỳ tình huống nào, nhân dân, Đảng Lao động và Chính phủ Cộng hòa Anbani cũng ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam anh hùng đến thắng lợi hoàn toàn”. Nhân dân nhiều nước khác như Anh, Nauy,... tiếp tục tổ chức các cuộc mít tinh, biểu tình đoàn kết với nhân dân Việt Nam, đòi Chính phủ nước họ công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.
Không chỉ cổ vũ, ủng hộ về tinh thần, các nước còn ủng hộ về vật chất để tiếp sức cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam sớm giành thắng lợi hoàn toàn. Bước vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, các nước xã hội chủ nghĩa tiếp tục viện trợ quân sự và hàng hóa cho ta với tổng số 724.512 tấn (75.267 tấn hàng hậu cần, 49.246 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật)6. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Tiệp Khắc viện trợ cho Việt Nam năm 1975 tăng gần 2,5 lần so với năm 1974. Ngày 01/4/1975, Hội Chữ thập đỏ quốc tế quyết định viện trợ khẩn cấp cho nhân dân các vùng mới giải phóng ở miền Nam một triệu frăng Thụy Sĩ. Các tổ chức của Hội là Ủy ban quốc tế chữ thập đỏ và Liên đoàn các hội chữ thập đỏ cũng kêu gọi các nước quyên góp để giúp đỡ nhân dân vùng mới giải phóng. Cơ quan Tổng ủy tỵ nạn (Liên hợp quốc) đã gửi chuyến hàng đầu tiên gồm 03 tấn sữa hộp và Quỹ quốc tế cứu trợ nhi đồng cũng quyết định gửi 15.000 frăng Pháp để giúp đỡ trẻ em và người già7. Khi cuộc Tổng tiến công của quân và dân ta trên toàn miền Nam đang diễn ra quyết liệt và đi đến hồi kết thúc, ngày 14/4/1975, Hội đồng Trung ương các công đoàn Liên Xô quyết định giúp đỡ khẩn cấp cho nhân dân miền Nam Việt Nam các loại dụng cụ y tế, thuốc, sữa... trị giá trên 500.000 rúp; ngày 26/4/1975, Chính phủ Xiri tổ chức mít-tinh ca ngợi những chiến thắng vang dội của quân và dân miền Nam và tổ chức đưa chuyến hàng viện trợ đầu tiên gửi tặng nhân dân miền Nam. Trong những ngày này, nhiều tổ chức khác trên thế giới cũng gửi tiền, lương thực, thuốc men đến giúp nhân dân ta ở các vùng mới giải phóng như: Hội Liên hiệp Sinh viên quốc tế Hội Lưỡi liềm đỏ Angiêri, Hội Chữ thập đỏ và Tổng liên đoàn lao dộng Phần Lan, tổ chức Hội Phụ nữ Ôtxtrâylia, Hội đảng công nhân sản xuất nhạc cụ Nhật Bản, Tổ chức thanh niên Thụy Điển, Ủy ban quyên góp viện trợ khẩn cấp cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam của Thụy Điển. Nổi bật là, ngay sau khi ta giành chiến thắng, ngày 30/4/1975 tại Thủ đô Xôphia, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Bungari đã ký kết Hiệp định viện trợ kinh tế không hoàn lại cho nhân dân miền Nam để khôi phục đời sống và kinh tế.
Như vậy, cho dù cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra trong điều kiện đã có Hiệp định Pari (năm 1973) làm cơ sở pháp lý để giải quyết vấn đề Việt Nam, song việc làm thế nào để các nước và nhân dân thế giới đồng tình, ủng hộ khi ta mở cuộc tiến công lớn, hoặc chí ít họ cũng “im lặng” là một vấn đề rất khó khăn trong công tác đối ngoại của Đảng ta. Nhưng, bằng sự vận dụng sáng tạo đường lối đối ngoại mềm dẻo và khôn khéo Đảng ta đã tiếp tục tranh thủ được sức mạnh thời đại, thực hiện thành công việc mở một mặt trận đoàn kết trên toàn thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân ta, phát huy sức mạnh thời đại kết hợp với sức mạnh dân tộc hoàn thành thắng lợi mục tiêu Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Kế thừa và phát triển sáng tạo bài học kinh nghiệm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (năm 1975) trong hơn 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, một lần nữa bài học về sự kết hợp này lại để lại dấu ấn sâu sắc. Tổng kết 15 năm đổi mới (1986 - 2000), Đảng ta khẳng định bốn bài học kinh nghiệm chủ yếu của sự nghiệp đổi mới; trong đó, bài học kinh nghiệm thứ ba là: “Đổi mới phải kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại”. Tiếp đến Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, XI bài học kinh nghiệm này tiếp tục được tổng kết với những phát triển mới. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta chỉ rõ kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là một nội dung quan trọng trong năm bài học kinh nghiệm chủ yếu, tạo nên những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó, trước những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới, khu vực; trong nước, thời cơ, vận hội phát triển mở ra rộng lớn, tuy nhiên vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch chống phá nước ta, tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Đảng ta tiếp tục xác định “… Phát huy cao nhất nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có nhiệu quả các nguồn lực bên ngoài”8, nhằm đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững: Sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện đại; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đặt ra, một trong những giải pháp vừa thiết thực, hiệu quả, vừa có tính chiến lược, lâu dài được Đảng ta xác định đó là phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”9. Đồng thời, xác định rõ mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, giữa yếu tố nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước: “Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng”10. Thực tiễn đã minh chứng, trên cơ sở nhận thức sâu sắc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là tất yếu khách quan, song kiên định giữ vững con đường độc lập, tự chủ, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy cao nhất các yếu tố nội lực, dựa vào nguồn lực trong nước là chính luôn là quan điểm cơ bản chỉ đạo xuyên suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa thời kỳ mới của Đảng. Nguồn lực đó là sức mạnh tổng hợp về quy mô và chất lượng của hơn 90 triệu dân số; các nguồn lực tự nhiên, như: Đất đai, rừng, biển, khoáng sản…; vị trí địa - kinh tế - chính trị chiến lược của đất nước; truyền thống yêu nước, tự lực, tự cường; nền văn hóa đậm tính nhân văn, cộng đồng; sự đóng góp của cách mạng Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc, hòa bình và tiến bộ xã hội trên thế giới; sự ổn định chính trị - xã hội; đường lối đúng đắn của Đảng và sự đồng tình, ủng hộ của tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân; sức mạnh tổng hợp quốc gia và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế v.v. Tất cả những nhân tố đó, dưới sự lãnh đạo của Đảng được tập hợp lại, đoàn kết lại tạo nên sức mạnh dân tộc Việt Nam.
Song song với phát huy sức mạnh dân tộc, Đảng ta cũng đặc biệt coi trọng nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, “là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”, nhằm mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nâng cao đời sống nhân dân; không ngừng nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa và góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Đây chính là bài học xây dựng, sử dụng sức mạnh tổng hợp, làm cho các yếu tố thời đại, quốc tế chuyển hoá và kết hợp với nội lực tạo ra thế và lực mới, giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng tốt thời cơ để đổi mới và phát triển nhanh, bền vững. Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định: “Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng… Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu. Ta đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện với nhiều đối tác quan trọng. Hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, góp phần quan trọng vào việc tăng cường nguồn lực cho phát triển, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.
Với vai trò là lực lượng nòng cốt, cùng với toàn dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Lực lượng vũ trang nhân dân thường xuyên quán triệt nắm vững quan điểm chỉ đạo: Kết hợp chặt chẽ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong đó, tiếp tục phát huy kinh nghiệm và truyền thống của dân tộc, giữ vững đường lối độc lập, tự chủ, phát huy ý chí tự lực, tự cường, chủ động khai thác mọi tiềm năng của đất nước; huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân để không ngừng tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố thành khu vực phòng thủ vững chắc; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, sẵn sàng chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, tranh thủ tối đa ngoại lực, sức mạnh của thời đại, trên cơ sở tăng cường và mở rộng quan hệ hợp tác quốc phòng giữa nước ta với các nước đối tác trên nhiều mặt, như: Hợp tác giữ vững an ninh khu vực và bảo vệ hòa bình thế giới; hợp tác nghiên cứu, phát triển khoa học quân sự, phát triển trang bị vũ khí, đào tạo, huấn luyện cán bộ, nhân viên kỹ thuật, trao đổi công nghệ quân sự hiện đại; nghiên cứu mở rộng hợp tác ứng dụng những thành tựu mới của khoa học, công nghệ, nhất là công nghệ thông tin, tự động hóa vào các lĩnh vực hoạt động quốc phòng; nâng cao quy mô, trình độ hiện đại hóa tổ chức, chỉ huy, bảo quản, sửa chữa, cải tiến thiết kế, chế tạo vũ khí, trang bị kỹ thuật,… nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng, sức mạnh của quân đội để bảo vệ đất nước tốt hơn, có khả năng răn đe, ngăn ngừa và đẩy lùi các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia. Qua đó, góp phần cùng với các hoạt động hợp tác trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, đối ngoại nhân dân hình thành thế đan xen lợi ích chiến lược giữa nước ta với các các nước, nhất là các nước lớn, các đối tác chiến lược, các nước láng giềng và các nước trong khu vực,… tạo môi trường hòa bình, ổn định và điều kiện quốc tế thuận lợi, kết hợp sức mạnh dân tộc thành sức mạnh tổng hợp để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trên con đường đổi mới, xây dựng thành công một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thiếu tướng, TS. Đỗ Hồng Lâm
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử
Tâm Trang (st)
______________
1. ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 485, 486.
2. Gồm 16 tỉnh, 05 thành phố (Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Đà Lạt), cùng nhiều quận lỵ, chi khu, yếu khu quân sự thuộc miền Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long.
3. ĐCSVN - Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36 năm 1975, Nxb CTQG, H. 2004, tr. 96.
4. Quân khu 3 địch còn khoảng 245.000 quân; trong đó, quân chủ lực có hơn 152.000 tên, với 6 sư đoàn, 5 lữ đoàn bộ binh, 19 tiểu đoàn pháo, 7 thiết đoàn cơ giới, 862 tàu hải quân lớn nhỏ và 800 máy bay các loại. Phía Quân khu 4 (Đồng bằng Sông Cửu Long), địch còn 03 sư đoàn bộ binh của Quân đoàn 4, 01 sư đoàn không quân, 05 trung đoàn thiết giáp, 02 sư đoàn bộ binh số 7 và số 9… ước tính còn khoảng bằng nửa lực lượng ở Quân khu 3 địch.
5. Hướng đông, bố trí sư đoàn bộ binh 18 (sau này còn tăng thêm, lúc cao nhất lên đến 9 trung đoàn, lữ đoàn bộ binh, lính dù, lính thủy đánh bộ), 04 trung đoàn thiết giáp. Hướng Bắc có Sư đoàn Bộ binh số 5 và 01 trung đoàn thiết giáp. Hướng Tây Bắc do Sư đoàn Bộ binh số 25, 01 liên đoàn quân biệt động, 01 trung đoàn thiết giáp phòng ngự. Hướng Tây Nam do Sư đoàn Bộ binh số 22 (tan rã từ Bình Định vào, mới được khôi phục). Phía Quân khu 4 (vùng đồng bằng sông cửu Long) địch tập trung về tăng cường phòng thủ Đường số 4 trên đoạn đường Tân An - Mỹ Tho, bịt chặt cửa ngõ vào Sài Gòn từ phía Tây.
6. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị - Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Thắng lợi và những bài học kinh nghiệm, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 601.
7. Báo Nhân Dân, ngày 01/4/1975.
8. ĐCSVN - Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 21.
9. Sđd, tr. 158.
10. ĐCSVN - Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XI của Đảng, Nxb CTQG, H. 2010, tr. 4.