Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã kiên cường chống lại nhiều kẻ thù xâm lược lớn mạnh, do điều kiện tương quan so sánh lực lượng đã buộc dân tộc ta ngoài lòng dũng cảm còn phải biết vận dụng các hình thức đấu tranh quân sự, ngoại giao, chính trị. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đảng ta đã vận dụng và kết hợp nhiều hình thức đấu tranh, phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp trên các mặt trận, tiêu biểu là giai đoạn 1969 - 1973, đấu tranh ngoại giao trên bàn đàm phán Paris phối hợp chặt chẽ đấu tranh trên các chiến trường đã đánh dấu một giai đoạn mới của cuộc chiến tranh Việt Nam: Đọ sức trên mặt trận ngoại giao, mở ra cục diện “vừa đánh vừa đàm”.

Đấu tranh đòi Mỹ chấm dứt chiến tranh phá hoại đến bàn thương lượng 4 bên

P.1

Trụ sở phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Paris ở Xoaxylơroa.

Sau thắng lợi của hai mùa khô, ta chủ trương mở mặt trận ngoại giao để phối hợp với mặt trận quân sự nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, nêu rõ lập trường chính nghĩa của ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của thế giới. Mục tiêu trước mắt là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom phá hoại miền Bắc. Tháng 3/1968, sau cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân, Giôn-xơn ra lệnh ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, bắt đầu nói đến việc thương lượng và đàm phán với ta.

P.2

Đoàn Đại biểu Chính phủ Mỹ dự phiên họp khai mạc cuộc hội đàm chính thức giữa đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đại diện Chính phủ Mỹ trong Hội nghị Paris ngày 13/5/1968 tại Phòng họp Trung tâm các Hội nghị quốc tế (Đường Kleber, Paris, Cộng hòa Pháp)

 

              Ngày 13/5/1968, cuộc đàm phán chính thức giữa hai bên ta và Mỹ bắt đầu khai mạc. Phái đoàn Mỹ do Thứ trưởng Ngoại giao Hariman dẫn đầu, phái đoàn của ta do Bộ trưởng Xuân Thủ dẫn đầu. Ngay trong phiên họp khai mạc, phái đoàn ta đã phát biểu trước, khẳng định lập trường trước sau không thay đổi đó là Mỹ phải chấm dứt hoàn toàn việc ném bom phá hoại miền Bắc sau đó mới bàn đến vấn đề có liên quan đến hai bên.

            Sau nhiều phiên họp căng thẳng, ngày 01/11/1968, Giôn-xơn phải ra lệnh chấm dứt ném bom phá hoại miền Bắc. Hội nghị đã bàn đến thành phần của Hội nghị 4 bên và Mỹ buộc phải chấp nhận theo đề nghị của ta, Hội nghị 4 bên gồm: Hoa Kỳ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Việt Nam Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

            Hội nghị 4 bên từ tháng 01/1969 đến tháng 10/1972

            Hội nghị 4 bên khai mạc tháng 01/1969 tại Paris, từ phiên họp đầu tiên đến khi đạt được bản Dự thảo Hiệp định, Hội nghị 4 bên đã đưa ra rất nhiều cuộc tiếp xúc riêng giữa cố vấn của Tổng thống Mỹ Kissinger và ông Lê Hữu Thọ, tổng cộng có tới 202 phiên họp chung công khai và 24 cuộc tiếp xúc riêng.

            Lập trường 4 bên nhưng thực chất là lập trường 2 bên giữa ta và Mỹ khác xa nhau nên khiến cho cuộc đàm phán gay gắt kéo dài và nhiều khi gián đoạn. Ta trước sau đòi Mỹ rút hết quân Mỹ, quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền dân tộc tự quyết của dân tộc Việt Nam. Phía Mỹ trước sau nêu quan điểm theo kiểu mặc cả có đi có lại, đòi cả hai bên ta (miền Bắc) và Mỹ rút quân ra khỏi miền Nam. Họ đã đặt ngang hàng của kẻ đi xâm lược và người chống xâm lược.

P.3

Cuộc gặp riêng giữa ông Lê Đức Thọ với ông Henry Kissinger tại Paris, năm 1973

            Do thất bại nặng nề ở cả hai miền Nam - Bắc, lại muốn có được thắng lợi trong cuộc bầu cử Tổng thống vào đầu tháng 11 năm 1972, Nich-xơn dùng thủ đoạn xuống thang chiến tranh để tranh thủ phiếu bầu của cử tri Mỹ. Đầu tháng 10/1972, phái đoàn Mỹ đến Paris nối lại đàm phán. Ngày 8/10/1972, trong cuộc tiếp xúc riêng giữa Kissinger và ông Lê Hữu Thọ, ta đưa ra bản Dự thảo Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ngày 17/10/1972, văn bản Hiệp định đã được hoàn tất, hai bên thỏa thuận ngày ký chính thức. Ngày 22/10/1972, Ních-xơn tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra.

            Ký Hiệp định Paris

            Sau khi tái cử Tổng thống ngày 8/11/1972, tập đoàn Ních-xơn trở mặt đòi xét lại bản Dự thảo Hiệp định đã được thỏa thuận, đòi ta nhân nhượng, cuộc đàm phán gián đoạn, Kissinger về Oa-sinh-tơn, ông Lê Đức Thọ về Hà Nội. Để ép ra phải nhân nhượng, Ních-xơn giở con át chủ bài mưu tính đánh đòn quyết định. Từ ngày 18 - 29/12/1972, không quân Mỹ mở cuộc tập kích bằng không quân chiến lược B52 vào Hà Nội, Hải Phòng…trong suốt 12 ngày đêm.

P. 4

Quang cảnh Lễ ký Hiệp định Paris, 27/01/1973

 

P.5

Lễ ký tắt Hiệp định Paris, 23/01/1973

P.6

Ông Lê Đức Thọ và Ông Henry Kissinger trong buổi ký tắt Hiệp định Paris năm 1973

 

P.7

Ông Lê Đức Thọ và ông Henry Kissnger trao đổi bút ký trên bàn hội đàm

 

P. 8

Bà Nguyễn Thị Bình tại Lễ ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973

P.9

Đoàn Chính quyền Việt Nam Cộng hòa tại Lễ ký Hiệp định Paris, năm 1973

Quân dân Hà Nội, Hải Phòng đã chiến đấu mưu trí, dũng cảm, đập tan cuộc tập kích bằng không quân chiến lược B52 của Mỹ, lập nên một trận “Điện Biên Phủ trên không”. Thất bại nặng nề ngày 30/12, Ních-xơn buộc phải tuyên bố ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra sau đó cử đại diện đến Paris để nối lại đàm phán. Ngày 13/01//1973, bản Dự thảo Hiệp định đã được thỏa thuận. Ngày 23/01, Hiệp định về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình được ký tắt giữa Kissinger, đại diện cho Chính phủ Mỹ và ông Lê Đức Thọ, đại diện cho Chính phủ Việt Nam. Ngày 27/01/1973, Hiệp định được ký kết chính thức tại Trung tâm các Hội nghị quốc tế phố Kleber ở Paris (Pháp) giữa 4 Trưởng đoàn là: Ông Nguyễn Duy Trinh, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; Hariman, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ; Ông Trần Văn Lắm - Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa và bà Nguyễn Thị Bình - Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Hiệp định có hiệu lực từ 7h sáng ngày 28/01/1973.

            Nội dung Hiệp định

P.10

Ông Lê Đức Thọ, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký thông báo chung với Hoa Kỳ về thực thi Hiệp định Paris, ngày 13/6/1973

            Hoa kỳ và các nước cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản ở Việt Nam là: Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

            Hoa kỳ rút hết quân viễn chinh và quân của các nước đồng minh ra khỏi miền Nam Việt Nam, triệt phá hết các căn cứ quân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam trong thời hạn 2 tháng kể từ ngày ký Hiệp định. Hoa Kỳ phải rút hết quân đội ra khỏi miền Nam Việt Nam dưới sự giám sát của Ủy ban Quân sự 4 bên.

            Mỹ và chính quyền Sài Gòn công nhận Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam, các bên công nhận thực tế ở miền Nam có 2 chính quyền, 2 quân đội, 2 vùng kiểm soát và 3 lực lượng chính trị.

P.11

Trao trả tù binh Mỹ ở sân bay Gia Lâm, ngày 18/02/1973

            Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.

            Các bên để cho nhân dân miền Nam tự quyết định tương lại chính trị thông qua tổng tuyển cử tự do.

            Mỹ có trách nhiệm vớt hết bom mìn, thủy lôi đã thả để phong tỏa bờ biển, cửa sông miền Bắc Việt Nam, có trách nhiệm đóng góp vào việc hàn gắn vết thương ở miền Bắc Việt Nam.

            Ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Paris

            Hiệp định Paris là kết quả của 18 năm đấu tranh kiên cường gian khổ của nhân dân ở cả 2 miền Nam - Bắc. Buộc Mỹ phải tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản ở miền Nam. Rút hết quân viễn chinh, quân chư hầu ra khỏi miền Nam, đó là thắng lợi chính nghĩa của dân tộc đoàn kết quyết tâm đánh Mỹ, thắng Mỹ.

            Kết quả quan trọng nhất của Hiệp định Paris là việc Mỹ rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu ra khỏi Việt Nam, làm cho tương quan lực lượng ở miền Nam thay đổi hẳn có lợi cho ta, quân ngụy Sài Gòn mất chỗ dựa đã suy yếu hẳn, còn lực lượng cách mạng thì giữ nguyên và phát triển nhanh chóng sau ngày ký Hiệp định Paris.

            Với kết quả đó, Hiệp định đã mở ra bước ngoặt lớn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, dân tộc ra đã thực hiện được một nhiệm vụ: “Đánh cho Mỹ cút” theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tạo tiền đề quan trọng “đánh cho Ngụy nhào” giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.

            Đối với miền Bắc: Hiệp định Paris cùng với việc Mỹ chấm dứt hoàn toàn chiến tranh phá hoại miền Bắc đã tạo cho nhân dân miền Bắc có hòa bình để khắc phục, hàn gắn chiến tranh, phát triển sản xuất, tăng cuờng tiềm lực của hậu phương xã hội chủ nghĩa để chi viện cho tiền tuyến miền Nam, trực tiếp chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975.

            Thắng lợi của Hiệp định Paris đã tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào, Campuchia phát triển. Sau Hiệp định Paris, Mỹ phải ký kết Hiệp định Viên Chăn tháng 2 năm 1973, chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Lào.

            Có thể nói, Hội nghị Paris và Hiệp định Paris là một điển hình thành công trong nghệ thuật đấu tranh ngoại giao của dân tộc ta trong lịch sử chống ngoại xâm, góp phần làm phong phú nghệ thuật vừa đánh giặc vừa đàm phán của cha ông ta, qua Hiệp định Paris, vị thế của dân tộc Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế. Bốn mươi năm đã trôi qua, nhưng ý nghĩa lịch sử của Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Việt Nam luôn là dấu son không bao giờ phai mờ được ghi vào lịch sử cách mạng Việt Nam nói chung và ngoại giao Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh nói riêng, góp phần quan trọng vào kết quả thắng lợi vang dội của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước./.

            Huyền Trang (tổng hợp)

Ảnh chụp tại Bảo tàng Hồ Chí Minh

Bài viết khác: