Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập trên Quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945.
Tên gọi "Ba Đình"
Ba Đình vốn là tên của một dải đất ở Thanh Hóa, nơi đã diễn ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp trong phong trào Cần Vương cuối thế kỷ XIX.
Trong cuốn “Văn hóa Việt Nam” có viết: “Chữ Ba Đình là để gợi nhớ dải đất Ba Đình ở Thanh Hóa, nơi đã nổ ra cuộc khởi nghĩa chống Pháp kéo dài từ tháng 9 năm 1886 đến tháng 01 năm 1887 do Đinh Công Tráng lãnh đạo”(1).
Trong cuốn “Đất nước ta” do cụ Hoàng Đạo Thúy chủ biên có viết: “Quảng trường Ba Đình mang tên thành Ba Đình mà những người yêu nước ở Thanh Hóa đã đắp nên vào năm 1887 để chống lại thực dân Pháp rất anh dũng, mưu mẹo và bền bỉ”(2).
Tên gọi “Ba Đình” được sử dụng chính thức từ giữa năm 1945, thời thị trưởng Trần Văn Lai (sau này là Phó Chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội). Những năm thực dân Pháp chiếm đóng, chúng đổi tên Ba Đình thành Hồng Bàng. Sau ngày giải phóng Thủ đô, vùng đất này lại trở về tên gọi Ba Đình cho đến nay.
Ba Đình có lịch sử hình thành rất sớm, là vùng đất thuộc huyện Quảng Đức (thành Thăng Long). Đây vốn là vùng “đất lành”, gần các làng nghề cổ, thuận đường đi lại nên cư dân tập trung đông đúc, kinh tế trù phú, các nghề tinh hoa phục vụ lối sống thị thành đều hội tụ về đây như làm thuốc, trồng hoa, nghề giấy v.v...
Quảng trường Ba Đình ngày nay vốn là “Chính Tây Môn” tức là cửa Tây của thành Thăng Long đời Nguyễn. Thực dân Pháp cho phá thành và biến nơi đây thành một vườn hoa nhỏ, gọi là “điểm tròn Puy-gi-ni-ê” (Round point Puginier) hay còn được gọi là vườn hoa Puy-gi-ni-ê (tên của một giáo sĩ người Pháp).
Nửa đầu thế kỷ XX, Phủ Toàn quyền Đông Dương, trụ sở các cơ quan trong bộ máy hành chính cai trị, các trại lính, trường học... của thực dân Pháp ở Đông Dương đều được xây dựng quanh khu vực này.
Ngoài tên gọi Ba Đình, trong thời kỳ Pháp tạm chiếm (1947 - 1954), chính quyền bù nhìn lại đổi tên là vườn hoa Hồng Bàng.
Ngày khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Ngày 19/8/1945, Cách mạng Tháng Tám thành công ở Hà Nội. Ngày 24/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Ủy ban Dân tộc Giải phóng từ Tân Trào (Tuyên Quang) đã về Hà Nội. Chiều ngày 25/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh vào nội thành, Người ở và làm việc tại số nhà 48 phố Hàng Ngang - nhà của gia đình ông Trịnh Văn Bô - một tư sản buôn bán vải và là cơ sở cách mạng. Tại đây, từ ngày 28/8/1945 đến ngày 31/8/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo văn kiện lịch sử: “Tuyên ngôn Độc lập”, để chuẩn bị cho ngày ra mắt của Chính phủ Lâm thời trước quốc dân đồng bào.
Theo kế hoạch, buổi lễ long trọng ngày 02/9 sẽ được tổ chức tại vườn hoa Ba Đình. Ban Tổ chức đã quyết định dựng lễ đài tại bồn cỏ tròn nằm giữa vườn hoa. Thời gian chuẩn bị không nhiều, nên Ban Tổ chức quyết định làm một lễ đài đơn giản nhưng trang nghiêm. Lễ đài (đồng thời là kỳ đài) dựng giữa Quảng trường Ba Đình, được làm bằng gỗ, cao hơn 4 mét, bốn mặt hình thang được bọc lụa xung quanh, trên vàng dưới đỏ, ở giữa có hình nổi ngôi sao vàng năm cánh. Thành lễ đài được phủ vải vàng, phía trước là cột cờ cao hơn 6 mét. Nhân dân Hà Nội đã rất nhiệt tình cho Ban Tổ chức mượn gỗ và vải lụa dựng lễ đài, ai cũng muốn góp phần sức lực nhỏ bé của mình cho cách mạng. Công việc được diễn ra sôi nổi và khẩn trương. Các bộ phận phối hợp với nhau nhịp nhàng ăn ý. Bộ phận chịu trách nhiệm mắc loa và micrô. Bộ phận chịu trách nhiệm treo các khẩu hiệu trên lễ đài bằng 3 thứ tiếng Việt, Nga, Anh. Sau một ngày, một đêm vất vả, đến 3 giờ sáng ngày 02/9/1945 công việc chuẩn bị lễ đài đã hoàn tất. Lễ đài đã được dựng giản dị nhưng trang nghiêm trên bồn cỏ giữa vườn hoa Ba Đình, hai bên có hai lư hương lớn làm bằng gỗ.
Sáng ngày 02/9/1945, cả Hà Nội nhộn nhịp trong không khí tưng bừng, náo nhiệt của một rừng cờ, rừng hoa và một biển người. Quá buổi trưa, hàng chục vạn người, trang phục chỉnh tề dồn về Quảng trường Ba Đình. Đoàn người vừa đi vừa giương cao biểu ngữ với những dòng chữ: “Nước Việt Nam của người Việt Nam”, “Độc lập hay là chết”, “Ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh”... Phía trước lễ đài là các đội tự vệ vũ trang cùng các đơn vị quân giải phóng đội mũ ca nô, quân phục trang nghiêm, hàng ngũ thẳng tắp. Hàng chục vạn đồng bào đại diện cho mọi tầng lớp nhân dân hân hoan đón chờ giờ phút lịch sử thiêng liêng - giờ phút khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Đúng 14 giờ, ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các thành viên trong Chính phủ lâm thời tiến ra lễ đài. Lễ chào cờ với bài “Tiến quân ca” vang lên hùng tráng, hàng vạn ánh mắt hướng về lá cờ đỏ sao vàng đang từ từ kéo lên. Sau lễ chào cờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bộ quần áo ka ki và đôi dép cao su thật giản dị nhưng trang nghiêm, thay mặt Chính phủ lâm thời, đọc bản “Tuyên ngôn Độc lập”, tuyên bố với thế giới sự ra đời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Mọi người hân hoan xúc động, im lặng lắng nghe giọng nói trầm ấm của vị lãnh tụ kính yêu. Người hỏi: “Tôi nói, đồng bào nghe rõ không?”, tức thì hàng vạn người đồng thanh đáp: “Có!”.
Ngày 02/9/1945 đã trở thành mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Quảng trường Ba Đình đã trở thành không gian thiêng liêng của Thủ đô Hà Nội. Để ghi nhớ sự kiện lịch sử trọng đại này, tháng 12/1945, Ủy ban nhân dân Hà Nội ra quyết định đổi tên vườn hoa Ba Đình thành vườn hoa Độc Lập.
Các sự kiện quan trọng khác…
Chín năm kháng chiến kết thúc bằng chiến thắng Điện Biên Phủ, Việt Nam đã trở thành ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc. Sáng sớm ngày 10/10/1954, nhân dân Thủ đô quần áo chỉnh tề, mang cờ, ảnh Bác Hồ và những bó hoa tươi thắm xếp thành đội ngũ trật tự hân hoan chào đón đoàn quân chiến thắng trở về tiếp quản Thủ đô. Ngày 16/10/1954, từ Chiến khu Việt Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chính thức về ở và làm việc tại khu vực Phủ Toàn quyền cũ, bên Quảng trường Ba Đình. Sau ngày giải phóng Thủ đô, Bộ Tuyên truyền của Chính phủ ta ra quyết định sửa đổi tên của 8 đường phố và vườn hoa, trong đó vườn hoa Hồng Bàng được đổi thành vườn hoa Ba Đình.
Ngày 01/01/1955, các lực lượng vũ trang và đông đảo các tầng lớp nhân dân Ba Đình cùng nhân dân Thủ đô long trọng tổ chức lễ mừng đón Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng và Chính phủ trở về Thủ đô. Trong cuộc mít tinh đầy xúc động, Người nhấn mạnh nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong giai đoạn cách mạng mới là phải nhanh chóng khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, thực hiện thống nhất, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ trong cả nước.
Những năm 1960, phong trào nhân dân Thủ đô chống Mỹ tiếp tục dâng cao. Ngày 03/7/1960, trên 20 vạn nhân dân Thủ đô, khắp nội ngoại thành cuồn cuộn đổ về Quảng trường Ba Đình hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo Mỹ - Diệm”, “Đế quốc Mỹ cút khỏi miền Nam Việt Nam”...
Do thất bại của chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, Mỹ chuyển sang chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, ồ ạt đưa quân Mỹ và chư hầu vào tham chiến tại miền Nam, tăng cường đánh phá miền Bắc. Trước sự liều lĩnh đẩy mạnh chiến tranh của Mỹ, ngày 17/7/1966, từ Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi toàn dân đoàn kết, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược. Lời hịch: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” vang vọng khắp non sông, trở thành chân lý và lẽ sống cho các thế hệ người Việt Nam yêu tự do, độc lập. Trong súng đạn, khói lửa ác liệt của chiến tranh, cả dân tộc vẫn một lòng hướng về Hà Nội, hướng về Ba Đình, nơi có Bác kính yêu đang hàng ngày, hàng giờ chỉ đạo, theo dõi bằng trí tuệ, niềm tin vào sức mạnh vô địch của khối đoàn kết toàn dân với ước nguyện “Bắc Nam sum họp, xuân nào vui hơn”.
Những ngày cuối tháng 8, đầu tháng 9/1969, đồng bào thủ đô và cả nước, cũng như bè bạn khắp năm châu bốn biển, đều hướng về Ba Đình, theo dõi và lo lắng về tình hình sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trời Hà Nội mưa rả rích, đồng bào thủ đô vây quanh, chật kín Quảng trường Ba Đình để thường xuyên được nghe thông báo của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tình hình sức khoẻ của vị lãnh tụ kính yêu.
Trong thời gian Bác ốm nặng, để chuẩn bị cho tình huống xấu nhất xảy ra cho dù không ai mong muốn, hai công trình phục vụ cho bảo quản thi hài và tang lễ đã được gấp rút xây dựng. Nơi bảo quản thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh được xây dựng tại Viện Quân y 108 mang bí danh công trình “75A”. Hội trường Ba Đình lịch sử được chọn là địa điểm đặt thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày tang lễ mang bí danh “75B”.
Sau một thời gian lâm bệnh nặng, tuy được các giáo sư, bác sĩ Việt Nam và Trung Quốc, cũng như toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta tận tình chăm sóc ngày đêm, nhưng vì tuổi cao, bệnh nặng, Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại vô cùng kính yêu của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam - người chiến sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và phong trào giải phóng dân tộc - danh nhân văn hóa kiệt xuất đã từ trần hồi 9 giờ 47 phút ngày 02/9/1969.
Đúng 20h ngày 05/9/1969, đoàn xe chở thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh từ Viện Quân y 108 (75A) theo lộ trình Lê Thánh Tông, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật, Hàng Đậu, Phan Đình Phùng đến Hội trường Ba Đình (75B). Tại đây, thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh được đặt trên giường gỗ trải nệm trắng trong chiếc quan tài kính trong suốt đặt giữa bục lễ đài, phía sau là bàn thờ Người hương trầm nghi ngút. Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thay nhau túc trực bên linh cữu Người. Đúng 6 giờ sáng ngày 06/9/1969, lễ viếng chính thức được bắt đầu và kéo dài đến hết ngày 08/9/1969.
Sáng ngày 09/9/1969, lễ truy điệu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được cử hành trọng thể tại Quảng trường Ba Đình. Hơn 20.000 đồng bào thủ đô và các địa phương trong cả nước cùng hơn 40 đoàn đại biểu quốc tế đã về Ba Đình tham dự lễ truy điệu người con ưu tú nhất của dân tộc. Ngoài ra còn có 22.000 bức điện và thư chia buồn của 121 nước. Trong số đó có 47 bức điện và thư của các vị nguyên thủ quốc gia và Thủ tướng Chính phủ các nước, của 79 Đảng anh em, 37 tổ chức Công đoàn, 59 tổ chức thanh niên, học sinh, 36 tổ chức Phụ nữ và 21 tổ chức và đoàn thể quốc tế khác.
Đúng 7 giờ 30 phút, nghi lễ bắt đầu. Trong không khí đau buồn, thương tiếc và trang nghiêm, đồng chí Lê Duẩn đọc “Điếu văn” bày tỏ lòng thương tiếc vô hạn của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đối với Hồ Chủ tịch. Tiếp đến là bản “Di chúc” của Người. Mọi người xúc động, im lặng lắng nghe từng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Kết thúc buổi lễ là 21 loạt đại bác và đoàn máy bay thuộc không quân nhân dân bay qua Quảng trường nghiêng cánh vĩnh biệt Người.
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc giữ gìn lâu dài thi hài Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 02/9/1973, công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được chính thức khởi công trên vị trí của tòa lễ đài ngày 02/9/1945, nơi mà trong 24 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chủ tọa các cuộc mít tinh lớn tổ chức tại Quảng trường lịch sử này. Ngày 29/8/1975, Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành, là nơi an nghỉ vĩnh hằng của Anh hùng giải phóng dân tộc và Nhà Văn hóa xuất sắc của Việt Nam, là đài kỷ niệm hùng vĩ của thời đại, biểu tượng đời đời tôn kính và biết ơn vô hạn của dân tộc ta đối với Bác kính yêu.
Trước Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh là Quảng trường Ba Đình. Quảng trường Ba Đình đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của Thủ đô và cả nước. Gần 15 năm sống và làm việc ở Khu Di tích Phủ Chủ tịch, bên cạnh Quảng trường Ba Đình, với cương vị là Chủ tịch Đảng, Chủ tịch nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhiều lần chủ trì, tổ chức các cuộc mít tinh, diễu hành, kỷ niệm các ngày lễ lớn của dân tộc, các cuộc họp Bộ Chính trị, các kỳ họp Quốc hội bàn về những quyết sách lớn của cách mạng Việt Nam. Hình ảnh Người luôn gắn với Ba Đình, nơi đây đã thực sự trở thành nơi hội tụ, gửi gắm niềm tin của lẽ phải, chính nghĩa của thắng lợi cuối cùng. Đã hơn 50 năm trôi qua, kể từ ngày Người đi xa, tên gọi Ba Đình đã trở thành địa danh quen thuộc, thân thương đối với không chỉ nhân dân Thủ đô, nhân dân cả nước mà còn là điểm thu hút đông đảo bè bạn quốc tế đến tham quan, du lịch, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, thăm nơi ở và làm việc của Người./.
Đặng Quang Huy
Khu Di tích Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Phủ Chủ tịch
Chú thích:
- Văn hóa Việt Nam - Ban Văn hóa Văn nghệ Trung ương xuất bản năm 1989, tr.98.
- Đất nước ta, Nxb. Khoa học Xã hội, H.1989, tr.68.