Ngày 28-11-2013, với 97,59% số phiếu tán thành, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sửa đổi). Ðây là một sự kiện chính trị - pháp lý quan trọng có tính lịch sử, mở ra một thời kỳ mới trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ở nước ta.

Quá trình xây dựng, ban hành bản Hiến pháp (sửa đổi) lần này thể hiện một cách tập trung nhất ý chí và nguyện vọng của nhân dân trong công cuộc đổi mới do Ðảng lãnh đạo, thông qua việc ban hành bản Hiến pháp (sửa đổi), vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh". Nhìn lại lịch sử lập hiến của Nhà nước ta cho thấy, qua việc ban hành các bản Hiến pháp, từ bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp năm 1946) đến nay, đều gắn với các dấu mốc phát triển lớn trong lịch sử quốc gia, dân tộc. Nếu quan niệm bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 1992 là bản Hiến pháp của thời kỳ đầu đổi mới, thì đến bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) lần này là một sự tiếp nối mạnh mẽ, sâu sắc hơn, sẽ thật sự đóng vai trò là "nhân tố để nước ta vững bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển về mọi mặt và chủ động hội nhập quốc tế"(1).

Trong việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục kế thừa cơ bản các quy định của Hiến pháp năm 1992, thể chế hóa ở mức độ sâu sắc hơn đường lối của Ðảng, Nhà nước về bản chất của Nhà nước, về việc bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, về phát huy dân chủ XHCN.

Hiến pháp (sửa đổi) xác định rõ vị trí, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, thể hiện qua các chương về các thiết chế trong tổ chức bộ máy của Nhà nước. Chương V của Hiến pháp, sửa đổi, quy định về Quốc hội (QH), với 16 điều, từ Ðiều 69 đến Ðiều 85 (so với 18 điều, từ Ðiều 83 đến Ðiều 100 tại Chương VI của Hiến pháp năm 1992). Về mặt kỹ thuật, số lượng các điều trong Chương có giảm đi (giảm 2 điều); cách thiết kế các điều cũng thể hiện sự hợp lý, logic, chặt chẽ hơn về văn phong, bố cục, thể hiện bước tiến mới về kỹ thuật lập hiến.

Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục khẳng định QH là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam (Ðiều 69). Ðánh giá một cách tổng thể, có thể nói các vấn đề căn bản nhất về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của QH trong bản Hiến pháp (sửa đổi) tiếp tục kế thừa các quy định về QH trong Hiến pháp năm 1992. Theo đó, "Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước".

Bên cạnh đó, các quy định về QH trong Hiến pháp (sửa đổi) đã có những điều chỉnh theo hướng minh định rõ hơn về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của QH, các chủ thể có liên quan trong tổ chức và hoạt động của QH. Thể hiện qua một số điểm mới sau đây:

Thứ nhất, về quyền lập hiến, Hiến pháp (sửa đổi) quy định QH thực hiện quyền lập hiến (Ðiều 69), so với Hiến pháp năm 1992, đã bỏ cụm từ "duy nhất", gắn với khả năng thực hiện trưng cầu ý dân về Hiến pháp trong quy trình sửa đổi Hiến pháp trong tương lai. Theo đó, Hiến pháp (sửa đổi) - Chương XI về Hiệu lực của Hiến pháp và việc sửa đổi Hiến pháp, tại khoản 4 Ðiều 120 đã bổ sung quy định: "Hiến pháp được thông qua khi có ít nhất hai phần ba tổng số đại biểu QH biểu quyết tán thành. Việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do QH quyết định"; quy định này nhằm thể chế hóa chủ trương của Ðảng về phát huy dân chủ XHCN; QH với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam được trao thẩm quyền quyết định việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp phù hợp với điều kiện, tình hình thực tiễn cụ thể của đất nước.

Thứ hai, đặt trong điều kiện các cơ quan như Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước đã được quy định bổ sung rõ về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ trong một Chương riêng - chương X của Hiến pháp (sửa đổi). Hiến pháp (sửa đổi) lần này đã có các điều chỉnh tương ứng liên quan đến thẩm quyền của QH, như: trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao, đã bổ sung quy định QH thực hiện việc "xét báo cáo công tác của Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do QH thành lập" (điểm 2 Ðiều 70); trong việc bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do QH thành lập; phê chuẩn danh sách thành viên Hội đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia (điểm 7 Ðiều 70), v.v.

Ngoài ra, so quy định tại điểm 8, Ðiều 84, Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp (sửa đổi) cũng quy định bổ sung theo hướng đầy đủ, chặt chẽ hơn về thẩm quyền của QH không chỉ giới hạn ở việc thành lập, giải thể đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, mà còn bổ sung cả việc nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính của đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; bổ sung quy định việc QH có thẩm quyền thành lập, bãi bỏ cơ quan khác theo quy định của Hiến pháp và luật (điểm 9 Ðiều 70).

Về Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của QH, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp (sửa đổi) đã có sự điều chỉnh theo hướng quy định việc QH chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của QH; còn các Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc và các Ủy viên, các Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và các Ủy viên Ủy ban do Ủy ban Thường vụ QH phê chuẩn (các điều 70, 75, 76); việc thành lập, giải thể Ủy ban của QH do QH quyết định (Ðiều 76). Quy định này một mặt vẫn bảo đảm được vị thế của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của QH, mặt khác bảo đảm tính chủ động, kịp thời, không phức tạp về quy trình, thủ tục trong trường hợp cần có sự điều chỉnh về nhân sự do yêu cầu của thực tiễn.

Bên cạnh đó, Hiến pháp (sửa đổi) lần này còn bổ sung quy định về thẩm quyền của QH trong việc phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (điểm 7 Ðiều 70). Có thể nói, quy định này thể hiện vị trí, vai trò quan trọng ngày càng tăng của chức danh Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao trong mối tương quan với các chức danh khác trong bộ máy nhà nước; đặt trong bối cảnh Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định rõ Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp (Ðiều 102); và Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất của nước CHXHCN Việt Nam (Ðiều 104).

Thứ ba, quy định theo hướng rõ và hợp lý hơn về trách nhiệm, thẩm quyền của QH trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. QH có thẩm quyền "quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ; quyết định dự toán ngân sách Nhà nước và phân bổ ngân sách Trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách Nhà nước" (điểm 4 Ðiều 70).

Như thế, so Hiến pháp năm 1992, đã có những điều chỉnh quan trọng, như đối với chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia, QH chỉ tập trung vào quyết định các chính sách cơ bản; các nội dung quan trọng khác cũng được bổ sung, minh định rõ hơn lần này, như việc quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ Chính phủ, v.v. những quy định này một mặt thể hiện thẩm quyền của QH trong việc bảo đảm tính thống nhất về mặt Nhà nước đối với các vấn đề tài chính, tiền tệ, kinh tế... quan trọng của quốc gia; đồng thời, còn mở ra khả năng thực hiện phân cấp, phân định nhiệm vụ, quyền hạn hợp lý hơn giữa các cơ quan ở Trung ương và địa phương, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong những vấn đề có liên quan đến kinh tế - xã hội nói chung của quốc gia trong thời gian tới.

Thứ tư, bổ sung việc quy định Chủ tịch nước, Chủ tịch QH, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp (điểm 7 Ðiều 70). Ðây là quy định mới trong Hiến pháp (sửa đổi) lần này. Thực tiễn cho thấy, bản Hiến pháp (sửa đổi) thật sự chứa đựng những mạch nguồn tư tưởng, là sự kết tinh ý chí, khát vọng của tuyệt đại đa số các tầng lớp nhân dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, là sự thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội(2) của Ðảng ta. Do đó, có thể nói với vị trí, vai trò, trách nhiệm là những chức danh, nhân sự cấp cao trong bộ máy Nhà nước, khi được QH - cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất bầu ra, việc người giữ các chức danh này phải tuyên thệ trung thành với Tổ quốc, Nhân dân và Hiến pháp vừa thể hiện trách nhiệm chính trị sâu sắc, vừa có ý nghĩa khắc sâu trong tâm khảm người cán bộ lãnh đạo như là phương châm hành động về sự trung thành với những giá trị mà cả dân tộc đang hướng theo. Ðồng thời, có thể quan niệm đây cũng là lời cam kết mạnh mẽ của các chức danh lãnh đạo quan trọng đứng đầu cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong bộ máy nhà nước trước nhân dân khi thực hiện nhiệm vụ được Ðảng, Nhà nước, Quốc hội, nhân dân giao cho.

Thứ năm, thẩm quyền của QH trong các vấn đề liên quan đến đối ngoại, chủ quyền quốc gia cũng đã được điều chỉnh lại theo hướng rõ, chặt chẽ hơn. Tại điểm 14, Ðiều 70, bên cạnh việc tiếp tục quy định thẩm quyền của QH trong việc quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại, đã có sự điều chỉnh cụ thể, hợp lý hơn thông qua việc quy định thẩm quyền của QH trong việc phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của CHXHCN Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của QH. Sự minh định này là cần thiết, là nền tảng hiến định cho việc tạo lập hành lang pháp lý theo hướng chuẩn mực, hoàn thiện hơn cho việc bảo đảm, thực thi chủ quyền quốc gia, thực thi chính sách đối ngoại... thời gian tới.

Thứ sáu, liên quan đến việc bổ sung cơ quan Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước (Chương X), việc bổ sung nội dung cơ quan khác do QH thành lập, bãi bỏ (Ðiều 70), Hiến pháp (sửa đổi) đã quy định, Ủy ban Thường vụ QH giám sát hoạt động của cơ quan khác do QH thành lập (điểm 3, Ðiều 74); đề nghị QH bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán Nhà nước (điểm 6, Ðiều 74), v.v.

Bên cạnh đó, bản Hiến pháp (sửa đổi) đã bổ sung thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ QH trong việc "phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của CHXHCN Việt Nam" (điểm 12, Ðiều 74). Việc bổ sung này trong Hiến pháp (sửa đổi) là cần thiết(3) do vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta ở nước ngoài và quy định này cũng phù hợp với thông lệ quốc tế. Trên thực tế, xét về mặt lịch sử lập hiến của Nhà nước ta, thì đây cũng là sự kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959 (điểm 11, Ðiều 53), Hiến pháp năm 1980 (điểm 14, Ðiều 100) về nội dung này. Bản Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1-1-2014. Ðể bảo đảm hiệu lực thi hành của Hiến pháp, QH đã ban hành Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28-11-2013 quy định một số điểm thi hành Hiến pháp (sửa đổi) trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan hữu quan trong việc tổ chức thi hành Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam; kịp thời triển khai các biện pháp cần thiết nhằm bảo đảm thi hành Hiến pháp (sửa đổi). Ðồng thời, Nghị quyết cũng quy định trách nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung ương và địa phương, MTTQ Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các cơ quan, tổ chức hữu quan khác có trách nhiệm tổ chức tuyên truyền, phổ biến sâu rộng nội dung của Hiến pháp (sửa đổi) nước CHXHCN Việt Nam tại cơ quan, tổ chức và địa phương mình, nâng cao nhận thức về Hiến pháp (sửa đổi) và ý thức chấp hành Hiến pháp, bảo đảm Hiến pháp (sửa đổi) được tuân thủ và nghiêm chỉnh chấp hành trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội(4)./.

PGS, TS ÐINH XUÂN THẢO - Viện trưởng Viện Nghiên cứu Lập pháp, thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội

------------

(1) Ðồng chí Nguyễn Sinh Hùng, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban sửa đổi Hiến pháp: "Hiến pháp sửa đổi là bảo đảm chính trị - pháp lý vững chắc để toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta đồng lòng vững bước tiến lên trong thời kỳ mới".

(2) Xem Lời nói đầu, Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi).

(3) Tham khảo thêm: Ðoàn thư ký kỳ họp, Một số nội dung cơ bản của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (sửa đổi) - tài liệu kèm theo Ðề cương báo cáo kết quả kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII.

(4) Ðiều 4, Nghị quyết số 64/2013/QH13 ngày 28 tháng 11 năm 2013 của Quốc hội quy định một số điểm thi hành Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam.

Theo nhandan.com.vn

Bài viết khác: