Tin tổng hợp

chon sach giao khoaThông tư số 27/2019/TT-BGDĐT ngày 30/12/2019 của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định nội dung chính ghi trên văn bằng và phụ lục văn bằng giáo dục đại học, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/3/2020.

90 nam thanh uy hn 4Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành tình cảm đặc biệt, mối quan tâm sâu sắc với Hà Nội. Với Thủ đô Hà Nội, Bác mong muốn “Thành phố Hà Nội phải làm thế nào để trở thành một Thủ đô xã hội chủ nghĩa. Muốn như thế thì mỗi một xí nghiệp, mỗi một đơn vị bộ đội, mỗi một trường học, mỗi một đường phố, mỗi một cơ quan và mỗi một nông thôn ở ngoại thành phải thành một pháo đài của chủ nghĩa xã hội”.

canh giacĐã thành “thông lệ”, trước mỗi kỳ đại hội đảng các cấp, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội, phản động lại đẩy mạnh hoạt động chống phá, nhằm xuyên tạc, bóp méo, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, nhận diện rõ những luận điệu sai trái, phản động và kiên quyết đấu tranh bác bỏ, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trước hết là của cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên.

dau tranh phan bacTư tưởng chủ yếu của đường lối đối ngoại và hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước ta là: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế nâng cao vị thế đất nước, vì lợi ích quốc gia dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

pham chat bo doi 1“Bộ đội Cụ Hồ” là danh hiệu, phẩm chất cao đẹp của người quân nhân cách mạng được hình thành và phát triển trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam. Kế thừa, phát huy phẩm chất cao đẹp đó, cán bộ, sĩ quan, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, làm cho phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” tiếp tục tỏa sáng trên lĩnh vực hoạt động mới, được bạn bè quốc tế ghi nhận.

xay dung cnxaXây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Nhận thức rõ quy luật và xuất phát từ truyền thống của dân tộc, kinh nghiệm, luật pháp quốc tế, việc bảo vệ Tổ quốc bằng phương pháp hòa bình, tạo môi trường thuận lợi xây dựng đất nước là chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước ta.

155. Bác Hồ dạy chúng tôi làm báo

Cách đây hơn sáu thập kỷ, vào mùa Xuân năm 1948 (Xuân Mậu Tý), lực lượng Công an nhân dân ngày đó mới chưa đầy ba tuổi. Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân đã lập nhiều thành tích to lớn trong sự nghiệp bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền cách mạng và bảo vệ nhân dân. Công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vẫn là một công tác đặc biệt thường xuyên được coi trọng… để động viên tổ chức toàn dân vượt mọi khó khăn quyết đánh thắng hoàn toàn thực dân Pháp xâm lược, bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc.

Đối với lực lượng Công an nhân dân thì công tác chính trị tư tưởng lại càng quan trọng. Nhận thức sâu sắc điều đó, Sở Công an Khu 12 một mặt ra sức tăng cường các mặt công tác nghiệp vụ, mặt khác coi trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng. Chấn chỉnh tờ nội san, cơ quan tuyên truyền giáo dục và hướng dẫn công tác của lực lượng. Sở Công an Khu 12 lúc bấy giờ hoạt động trên một địa bàn tương đối rộng gồm sáu tỉnh: Lạng Sơn, Bắc Giang, Bắc Ninh, Quảng Yên, Hòn Gai, Hải Ninh.

Cũng mùa Xuân năm đó, nội san Bạn Dân ra số "Xuân" với nội dung, hình thức được cải tiến một bước đáng kể và được in bằng máy. Sau khi nhận được số báo mới in xong, mọi người đều hăng hái nhiệt tình góp sức để phát hành nhanh chóng, mong sao báo đến tay bạn đọc đúng vào dịp Tết Nguyên đán.

Một buổi tối giáp Tết năm ấy, mọi người quây quần trong phòng họp của Sở, kể cho nhau nghe về những chiến công của quân và dân ta trên chiến trường Việt Bắc, những lần được gặp Bác Hồ tại các cuộc hội nghị, những lớp học hoặc những lần được bảo vệ Bác. Và cũng trong buổi nói chuyện đầm ấm cuối năm ấy, đồng chí Hoàng Mai - Giám đốc Sở Công an Khu 12 nghĩ đến việc gửi thư chúc Tết Bác Hồ và kính biếu Người một tờ báo Xuân. Về kỷ niệm này, đồng chí Hoàng Mai kể lại:

Đêm đó, tại phòng làm việc ở núi rừng Việt Bắc, tôi ngồi viết thư chúc Tết Bác Hồ. Nội dung chính là chúc Bác mạnh khỏe, sống lâu mãi mãi để cùng với Trung ương Đảng, toàn dân đánh thắng hoàn toàn giặc Pháp xâm lược, giành độc lập tự do cho Tổ quốc. Đồng thời, kính biếu Bác một số báo Tết của Sở Công an Khu 12 và đề nghị Bác cho ý kiến chỉ bảo để tờ báo có thể làm tròn chức năng của mình. Tôi chọn một phong bì đẹp, có in một nhành hoa Xuân và tìm một tờ báo đẹp nhất đóng gói cẩn thận, ngoài phong bì tự tay viết một dòng chữ “Kính gửi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu!” rồi đưa giao liên của Sở gửi theo đường nhanh nhất. Mặc dù với niềm hy vọng thiết tha rằng Bác sẽ đọc và sẽ trả lời, nhưng rồi vẫn lo Bác bận trăm công nghìn việc quan trọng của cách mạng, của đất nước, không biết Bác có thời gian đọc và trả lời không...

Nhưng một điều rất bất ngờ đã đến! Một buổi sáng mùa Xuân năm Mậu Tý (năm 1948), mưa Xuân lất phất đầy trời, cây đào dưới góc sân đang nở rộ như cùng vui Xuân với những người chiến sĩ công an. Tôi đang làm việc thì đồng chí giao liên đưa đến một phong bì đề chính tên tôi. Cầm phong bì, nhìn nét chữ đề ngoài phong bì mà linh tính như mách bảo, có thể là thư của Bác. Tôi hồi hộp bóc thư. Nhìn tiêu đề của bức thư và con dấu, chữ ký… đúng là thư của Bác rồi. Tôi mừng quá, đọc một lượt nhanh rồi đọc lại một lần nữa, lần nữa…

"Ngày 11 tháng 3 năm 1948

Gửi: Đồng chí Hoàng Mai

Bác đã nhận được thư và báo cháu gửi tặng Bác. Bác thấy có sự cố gắng, đáng hoan nghênh. Nhưng báo theo cháu nói từ 24 đến 32 trang thì dài quá, cần làm ngắn lại và viết những vấn đề thiết thực, mọi người đều có thể hiểu và làm được như thế mới có tác dụng giúp thúc đẩy công tác, đẩy mạnh thi đua, trên báo cần thường xuyên làm cho anh chị em công an nhận rõ công an của ta là công an nhân dân, vì nhân dân mà phục vụ và dựa vào nhân dân mà làm việc. Nhân dân ta có hàng chục triệu người, có hàng chục triệu tai, mắt, tay, chân. Nếu biết dựa vào nhân dân thì việc gì cũng xong. Trên tờ báo phải luôn luôn nhắc nhở anh em rèn luyện tư cách, đạo đức…

Chào thân ái và quyết thắng!

Hồ Chí Minh"

Sau khi nhận được thư Bác, tờ nội san của Công an Khu 12 đã chấn chỉnh lại theo ý kiến chỉ bảo của Bác. Và cũng từ mùa Xuân ấy, Công an Khu 12 cũng như khắp nơi hưởng ứng phong trào học tập và thực hiện Sáu điều Bác Hồ dạy. Lời Bác dạy năm xưa cho đến nay đã hơn 65 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị và tính thời sự. Lực lượng Công an nhân dân đã lấy đó làm phương châm, nguyên tắc và là kim chỉ nam cho mọi hành động và công tác hằng ngày.

(Theo lời kể của đồng chí Hoàng Mai, Giám đốc Sở Công an Khu 12)

156. Một lần đón Bác

Kỷ niệm sâu sắc nhất trong cuộc đời chiến sĩ là lần cán bộ, chiến sĩ Đại đội 1 Đoàn cao xạ sông Đuống chúng tôi được vinh dự đón Bác Hồ đến thăm, ngày 15-2-1961 (ngày mùng Một Tết âm lịch). Thấm thoát đã trên 30 năm, chúng tôi không bao giờ quên được những ấn tượng sâu sắc trong lần được đón Người năm ấy. Cuối năm 1960, sau khi được huấn luyện chuyển loại pháo 88 mm sang pháo 100 mm, từ trận địa Gia Thượng huyện Gia Lâm, đại đội chúng tôi hành quân về trận địa Nam Dư (trận địa "Đê Bùng") thuộc xã Lĩnh Nam, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Được trang bị loại pháo và khí tài mới, hiện đại, nhất là được bảo vệ bầu trời Thủ đô Hà Nội, cả đơn vị ai nấy đều phấn khởi, lao vào học tập và rèn luyện với một quyết tâm rất cao. Nhờ vậy, kết thúc năm 1960 Đại đội 1 được đánh giá là đơn vị mạnh toàn diện, riêng về huấn luyện được tặng cờ thi đua "Đơn vị huấn luyện khá nhất". Với khí thế đó, ngay từ đầu năm 1961, bằng đợt thi đua "Mừng Xuân dâng Đảng" mà nội  dung chính là sẵn sàng chiến đấu cao nhất, giữ nghiêm kỷ luật và tổ chức cho bộ đội đón Tết thật chu đáo đã tạo nên cho đơn vị một niềm tin và sức mạnh mới.

Lúc đó quân số của đơn vị có hơn 100 đồng chí, hầu hết ở Thái Bình, Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Nội. Ban chỉ huy gồm có tôi là Đại đội trưởng, quân hàm Trung úy, anh Lê Mai, Thượng úy là Chính trị viên, anh Mai quê ở miền Nam, anh Trần Ngọc Thái và anh Bùi Hữu Nam là Đại đội phó và Chính trị viên phó. Ngoài 10 đồng chí có thành tích xuất sắc trong năm hoặc gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt được giải quyết về ăn Tết cùng gia đình, còn lại toàn đơn vị đều yên tâm, phấn khởi đón Xuân ngay trên trận địa.

Tôi nhớ, hai ngày trước Tết Nguyên đán có hai đồng chí công an đến thăm và thông báo cho biết là vào dịp Tết sẽ có đồng chí cán bộ cấp cao đến thăm đơn vị. Đồng chí cán bộ cấp cao đó là ai, đến vào lúc nào chúng tôi không được biết. Chúng tôi hội ý trong Ban chỉ huy để tổ chức cho đơn vị vừa sẵn sàng chiến đấu cao, vừa đón Xuân và đón khách thật tốt, đồng thời báo cáo lên trung đoàn tin vui này.

Trong không khí phấn khởi ấy, buổi đón giao thừa của đơn vị kéo dài thêm. Sợ anh em mệt, sáng mùng Một Tết chúng tôi cho báo thức muộn 30 phút so với ngày thường. Nhưng cả đơn vị ai cũng dậy sớm để đón ngày đầu năm mới trong niềm phấn khởi lạ thường. Nổi giữa khu trận địa và doanh trại của đại đội là lá cờ Tổ quốc nhẹ bay trong gió Xuân.

Tôi mặc bộ quân phục mới nhất đi xuống các trung đội để "xông nhà" và chúc Tết anh em. Vừa bước ra khỏi nhà, tôi sững người lại vì nhìn thấy ngay cạnh nhà chỉ huy trung đội, bên hàng dây phơi một cụ già đang cúi xuống nhẹ nhàng nhặt từng chiếc khăn mặt rơi xuống đất vắt lên dây. Tôi nhận ra ngay cụ già đó là Bác Hồ. Xúc động quá, tôi reo lên như con trẻ: Bác! Bác Hồ! và chạy đến bên Người. Cũng lúc đó tôi mới nhận ra mấy đồng chí đi cùng Bác. Bác tươi cười nói:

- Bác với mấy chú "đánh tập hậu" các nhà quân sự, các chú bị bất ngờ rồi đấy.

Tiếp đó, nhìn vào hàng dây phơi khăn mặt, Người ân cần bảo tôi:

- Phải có cặp, cặp khăn mặt, quần áo khi phơi cho anh em không gió làm rơi hết. Nếu chưa mua được cặp thì lấy cặp tre cũng được.

Vừa nói, Bác vừa hướng dẫn cách làm. Vừa lúc đó, cán bộ, chiến sĩ trong đơn vị chạy ùa đến. Ai cũng muốn đứng gần Bác. Tôi xin phép Bác tập trung đơn vị để nghe Bác nói chuyện. Sau khi chúc Tết đơn vị, nhìn khắp lượt chiến sĩ, Bác ân cần hỏi:

- Các chú mặc có đủ ấm không? Ngủ có ổ rơm không?

Chúng tôi thưa với Bác là mặc đủ ấm và không có ổ rơm. Bác quay sang tôi, hỏi:

- Sao đơn vị không làm ổ rơm để anh em ngủ cho ấm?

Tôi thưa với Bác là tranh thủ những ngày nghỉ, đơn vị đã liên hệ với các nhà máy ở gần để tìm việc làm và tổ chức cho anh em lao động lấy tiền. Số tiền đó đơn vị đã dành để mua thêm cho mỗi người một chiếc chăn. Cùng với chiếc chăn được cấp, anh em đắp đủ ấm. Bác khen "Thế là tốt" rồi Bác nói tiếp:

- Bác được biết năm qua đơn vị các chú là đơn vị huấn luyện khá nhất. Vậy nếu máy bay địch vào các chú có đánh được không?

Toàn đơn vị đồng thanh trả lời Bác: "Có ạ". Sau đó Bác căn dặn cán bộ, chiến sĩ đơn vị không được chủ quan, phải chịu khó học tập để quản lý và sử dụng thành thạo loại vũ khí, khí tài hiện đại vừa được trang bị để bảo vệ Tổ quốc. Phải tích cực tăng gia sản xuất. Bác khen năm qua đơn vị đã tăng gia sản xuất tốt, năm nay phải làm tốt hơn. Bác còn căn dặn cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết thương yêu nhau như anh em ruột thịt. Cán bộ phải chăm lo đến chiến sĩ từ nơi ăn chốn ở, phải có trách nhiệm với gia đình, với nhân dân nơi đóng quân. Riêng với cán bộ đơn vị, Bác hỏi chúng tôi có dành tiền lương gửi về giúp gia đình không? Thay mặt anh em tôi trả lời: "Thưa Bác có ạ", Bác khen: "Thế là tốt".

Sau đó, Bác lấy thuốc lá tự tay chia cho từng người và tặng cho đơn vị một gói quà. Riêng với gia đình anh Lê Mai (vợ anh Mai là quân y sĩ cũng người miền Nam) còn có một hạnh phúc lớn hơn là hôm ấy cả gia đình gồm anh, chị và cháu gái cũng có mặt. Bác đã dành riêng cho gia đình anh Mai - những người con của miền Nam ruột thịt những tình cảm thật đặc biệt. Hình ảnh Bác bế đứa cháu, con anh Mai và tự tay đưa kẹo cho cháu làm cho chúng tôi xúc động.

Sau khi nghe Bác nói chuyện xong, chúng tôi mời Bác và những cán bộ cùng đi ra tham quan trận địa và xem cán bộ, chiến sĩ chuyển cấp chiến đấu. Bác vui vẻ nói:

- Hôm nay là ngày Tết, để dịp khác Bác sẽ đến thăm và xem các chú luyện tập.

Nói rồi Bác đi kiểm tra nhà bếp, kiểm tra công trình vệ sinh và công sự, trận địa của đơn vị, Bác chào chúng tôi và ra xe.

Niềm vui lớn đến với chúng tôi thật bất ngờ. Xe chở Bác và những đồng chí cùng đi đã ra khỏi đơn vị, nhưng chúng tôi vẫn bàng hoàng như vừa qua một giấc mơ.

Đáp lại sự quan tâm của Bác, đơn vị chúng tôi đã tổ chức nhiều buổi học tập về những lời dạy bảo của Người trong lần đón Bác hôm ấy và phát động phong trào thi đua thực hiện tốt lời Bác dạy. Nhờ vậy, năm 1961 và nhiều năm sau đó, Đại đội 1 chúng tôi đã liên tục đứng đầu Trung đoàn.

(Theo Đại tá Bùi Biếng, trích trong "Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")

157. Bảo vệ Bác đi chiến dịch Biên giới

Thu Đông năm 1950, Trung ương quyết định mở chiến dịch Biên giới, nhằm khai thông đường liên lạc giữa nước ta với các nước xã hội chủ nghĩa. Để nắm tình hình giúp Ban Chỉ huy chiến dịch và động viên tinh thần bộ đội, cuối tháng 8-1950, Bác Hồ đi chiến dịch. Một kế hoạch bảo vệ Bác được xây dựng khẩn trương, do Thường vụ Trung ương Đảng trực tiếp chỉ đạo.

"Các chú khỏe thử theo kịp Bác không?"

Lực lượng bảo vệ được Bác cho đi cùng khác với tất cả các lần đi trước. Thường đi công tác với Bác chỉ có hai cán bộ đi cùng, lần này có tới sáu đồng chí. Ngoài ba đồng chí Nhất, Định, Thắng còn có ba đồng chí nữa là Khởi, Lừ, Tô, chiến sĩ thuộc Tiểu đội AD, đơn vị được thành lập từ tháng 5-1950 có nhiệm vụ bảo vệ vòng ngoài nơi Bác ở và làm việc. Ngoài ra, Trung ương còn cử bác sĩ Chánh đi chăm sóc sức khỏe cho Bác và anh em trong đội. Đồng chí Định được Bác phân công làm Tiểu đội trưởng. Mọi người trước khi lên đường đã chuẩn bị khá cẩn thận và đầy đủ: Vũ khí, quân trang, lương thực, thực phẩm…, đồng chí Trần Đăng Ninh trực tiếp kiểm tra việc chuẩn bị của đoàn và giao nhiệm vụ cụ thể.

Theo kế hoạch, Bác cháu rời "Chủ tịch phủ" lên đường với bộ quân phục. Bác đội mũ lá quai cột bằng chiếc khăn mặt bông, khi đội luôn che kín bộ râu, tay chống gậy, vai đeo túi dết quen thuộc. Mọi người trong đoàn cũng hóa trang như một đơn vị bộ đội đi công tác. Anh em đã làm sẵn và mang theo một chiếc cáng định bụng sẽ cáng Bác đôi đoạn. Gọi là "cáng" cho oai chứ thực ra chỉ là một tấm vải thô rộng, hai đầu cột vào đòn tre. Biết ý định của các chiến sĩ, Bác bảo: "Thôi các chú cất nó đi". Tiểu đội còn phân công đồng chí Nhất và đồng chí Thắng bí mật chuẩn bị ngựa dắt đi trước. Ra đến cửa rừng, đồng chí Thắng dắt ngựa lại mời Bác đi. Bác không đồng ý, nói: "Chúng ta có tám người, ngựa chỉ có một con, Bác cưỡi sao tiện?". Đồng chí Định cố nài nỉ: "Thưa Bác, chúng cháu còn trẻ, Bác đã nhiều tuổi, đường lại xa, công việc nhiều, xin Bác cứ lên ngựa cho".

Bác nói: "Ừ, các chú đều khỏe, còn trẻ cả, để đi đường xem có chú nào theo kịp Bác không? Thôi được, các chú đã mang theo ngựa, hãy để nó chở ba lô, gạo, muối, thức ăn. Trên đường đi ai mệt thì cưỡi". Anh em vâng lời Bác dắt ngựa theo.

Ra khỏi Thành Cóc, mọi người gặp con suối chảy về Chợ Chu. Đang có nước lũ, những gốc cây, những khúc gỗ mục lao băng băng…, nước réo ầm ầm tưởng chừng như không có cách nào vượt qua được. Các chiến sĩ tiền trạm đã tìm chỗ nông lội thử, nhiều chỗ lội qua nước tới bả vai. Nếu chỉ có mấy anh em bảo vệ thì sức nước chảy mạnh cũng chẳng có gì là khó khăn. Nhưng việc phải lo là làm sao đưa Bác vượt suối an toàn? Anh em phân công chia nhau men theo bờ suối xem có chiếc mảng nào thì chèo sang, hoặc có một cây nào thì chặt ngả tạm làm cầu, nhưng tìm khắp xung quanh chẳng thấy thứ gì cả.

Anh em đã đề nghị Bác nghỉ tạm chờ nước rút hãy đi. Bác nói: "Trời còn có thể mưa lâu, chờ thì đến bao giờ? Phải tìm mọi cách qua mới được". Bác lại hỏi: "Các chú đã tìm hết lối sang suối chưa?".

Đồng chí Định trả lời thay anh em:

- "Thưa Bác! Chúng cháu vẫn chưa tìm được ạ!".

Bác cười, anh em đều ngạc nhiên đổ dồn vào ánh mắt Bác. Bác đưa tay chỉ ra xa rồi ôn tồn: "Ở đây hai bên suối đều có ruộng nương. Chả nhẽ, vì ngày mưa lũ đồng bào lại không đi nương à? Các chú tìm lối sang suối mà chỉ tìm dọc bờ là không biết dựa vào dân".

Lúc này, anh em mới để ý theo hướng tay Bác chỉ. Xa xa thấy ruộng nương tươi tốt hai bên bờ. Hai đồng chí chạy vội lên một bãi gần đó. Một lát hai người trở lại cho biết, cách nơi Bác đứng một đoạn, bờ bên kia có một chiếc mảng cột dưới gốc cây. Bác và mọi người rất mừng, cùng nhau đi tới đó và qua bên kia bờ nhờ mảng của dân. Tối hôm đó đoàn tới Chợ Chu, tính ra thì mới đi được 30 cây số. Để bảo đảm bí mật, mọi người đề nghị Bác cho nghỉ lại ở một ngôi đình giữa đồng.

Đi bộ 1.000 cây số trong một tháng

4 giờ sáng hôm sau, đoàn lên đường.

Chặng đường rừng ngày thứ hai tương đối dễ đi. Bác luôn nhắc tất cả phải cố đi nhanh để bù lại ngày hôm qua. Chiều tối, Bác và mọi người nghỉ lại ở một gian nhà cũ bỏ không gần Chợ Mới. Bữa cơm hôm đó ngoài món "thịt hộp Việt Minh", còn có thêm một ít rau tàu bay luộc. Bác nói đùa: "Rau tàu bay có khác, ăn vào nhẹ cả người, lại có cả mùi măng".

Tiểu đội trưởng Định còn nhớ một lần đi đêm, trời đã khuya, may sao gặp một cái quán làm bằng vài tấm tranh cột trên bốn chiếc cọc tre. Bác đặt ba lô làm gối, ngả lưng trên chiếc ghế dài làm bằng hai cây gỗ cong queo để ngủ. Anh em bảo vệ cũng nằm xung quanh Bác.

Trước lúc ngủ, Bác còn dặn: "Cắt gác nhớ cắt cho Bác một ca".

Đến đường số 4, đồng chí Võ Nguyên Giáp cho một chiếc xe Jeep ra đón, anh em mừng và khẽ bảo nhau: "Bây giờ khỏi cuốc bộ rồi!"

- Không ngờ Bác nói với một cán bộ trên xe: "Đưa xe về chở đồ tiếp tế cho bộ đội. Bác đi bộ quen rồi!". Thế là Bác cháu lại đi đường tắt về Lam Sơn. Gần nửa đêm mới đến địa điểm cơ quan lãnh đạo địa phương. Bác vào làm việc với Tỉnh ủy Cao Bằng. Anh em phân công nhau lo chuẩn bị chỗ ngủ. Nhưng làm việc xong Bác lại đi tiếp tới Quảng Uyên. Lúc đó đã quá nửa đêm. Trước lúc lên đường, Bác họp đội lại "đả thông tư tưởng" và phổ biến tình hình.

Anh em lại cùng Bác theo đường tắt đi tiếp. Nửa đêm hôm sau bỗng xảy ra một việc: Khi Bác và mọi người đang vượt qua một đèo nhỏ đột nhiên có tiếng súng trên đèo bắn xuống, đạn rít chéo ngay trên đầu. Đồng chí Định hô lớn: "Trung đội một vòng phải, Trung đội hai vòng trái, Trung đội ba theo tôi xung phong!".

Các chiến sĩ trong đội đều hét lớn: "Xung phong!". Hò hét nghi binh vậy chứ làm gì có ba Trung đội lúc bấy giờ. Sau đó anh em để ba đồng chí ở lại yểm trợ, số còn lại đưa Bác lánh vào rừng. Bỗng những tiếng kêu ầm ĩ vang lên: "Đừng bắn! Đừng bắn! Người nhà thôi!…". Nghe vậy đồng chí Định và các đồng chí tiền trạm lén lên phía trước thăm dò, hóa ra du kích ta.

Khi Bác về tới Quảng Uyên thì trời đã sáng. Anh em liên lạc với Ban chỉ huy chiến dịch. Trong bài nói chuyện, Bác nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến dịch: "Chiến dịch này rất quan trọng, các chú chỉ được thắng mà không được thua. Phải có quyết tâm cao và tinh thần dũng cảm trăm phần trăm".

Đúng 6 giờ sáng ngày 16/9/1950, tiếng súng mở màn chiến dịch đã nổ. Trong lúc bộ binh tiến đánh các đồn Phìa Khóa, Yên Ngựa, Cam Phầy thì pháo binh của ta bắn vào đồn chính để dập hỏa lực và phá hủy công sự của địch. Máy bay địch lồng lộn trút từng đợt bom xuống những nơi nghi có quân ta. Đài quan sát rất gần trận địa. Anh em bảo vệ ai cũng lo cho Bác. Nhưng Bác như không để ý gì đến máy bay, Người ngồi, quần xắn cao vừa chăm chú nhìn xuống cứ điểm giặc vừa đối chiếu với tấm bản đồ tham mưu. Bác nghe một cán bộ của Ban chỉ huy chiến dịch báo cáo tình hình. Hình ảnh này của Bác đã được nhà nhiếp ảnh Vũ Năng An chụp lại.

Đến trung tuần tháng 10-1950, ta giải phóng khu vực biên giới từ Cao Bằng đến Đình Lập (Lạng Sơn) và chiến dịch Biên giới kết thúc thắng lợi. Bác đi thăm các đơn vị quân đội và các đoàn dân công tham gia chiến dịch rồi trở lại Tân Trào. Sau hơn một tháng, các chiến sĩ cận vệ bảo vệ Bác trở lại "Chủ tịch phủ". Vậy là Bác đã đi bộ cả tháng trên 1.000 cây số. Đối với Bác ở tuổi 60 quả là một chuyện thần kỳ.

(Trích trong "Theo dấu chân Bác")

Tâm Trang (tổng hợp)


 158. Phần thưởng của Bác

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trước đây, tỉnh Hưng Yên - quê tôi bị giặc chiếm đóng, nhưng là một trong những tỉnh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ có phong trào chiến tranh nhân dân phát triển mạnh. Xã tôi ở sát đường 39, hằng ngày phải chịu đựng và chứng kiến sự càn quét, bắn phá dã man của địch. Căm thù bọn cướp nước và bán nước, được sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân xã tôi đã không hề khuất phục bọn giặc. Đội du kích xã tôi được xây dựng ngày càng lớn mạnh và lập nhiều chiến công. Nhờ được các chú lớn tuổi dìu dắt, giác ngộ, nên năm 1952 (năm 15 tuổi) tôi được gia nhập đội du kích xã. Hồi đó, để phối hợp với chiến dịch Hòa Bình, các đội du kích hậu địch được lệnh tăng cường hoạt động. Tôi được phân công bám địch ở bốt Lực Điền để thường xuyên báo cáo tình hình cho đội du kích, đánh địch, quấy rối và bao vây chặt không cho bọn chúng kéo đi càn quét, cướp bóc. Đội du kích xã tôi đã chiến đấu dũng cảm, mưu trí, diệt nhiều tên và làm cho bọn địch hoang mang, mất ăn, mất ngủ, không dám ló mặt ra ngoài.

Do lập được thành tích trong chiến đấu, cấp trên đã dành cho tôi một phần thưởng đặc biệt: Tấm ảnh Bác Hồ với dòng chữ “Đoàn kết quân dân, đánh thắng giặc Pháp”. Phía dưới dòng chữ là lời đề tặng do chính tay Bác viết: “Tặng dân quân du kích Hưng Yên”, và dưới đó là chữ ký của Bác, nét chữ nghiêng, rất chân phương, mà sau này tôi thường thấy trong các tấm bằng Huân chương do Chủ tịch nước ký. Thật không sao nói hết được niềm xúc động của tôi khi tôi nhận tấm ảnh của Bác từ tay đồng chí xã đội trưởng. Suốt đêm hôm đó, tôi cứ thao thức mãi không sao ngủ được. Bác có biết bao nhiêu điều phải lo cho đất nước, thế mà Bác vẫn theo dõi sát cuộc chiến đấu của nhân dân ở một vùng địch hậu đồng bằng. Bác tự tay đề tặng vào tấm ảnh của Người cho dân quân du kích Hưng Yên chúng tôi. Rồi chính tôi lại được nhận phần thưởng vô cùng quý báu đó. Tôi không sao nói hết được nỗi xúc động trong lòng. Tôi chỉ biết tâm niệm một điều là phải công tác và chiến đấu sao cho xứng đáng với công ơn to lớn của Người.

Trong cuộc đấu tranh quyết liệt diễn ra với kẻ địch hằng ngày ở địch hậu, chẳng mấy ai dám nghĩ rằng mình chiến đấu để giành phần thưởng của Bác. Đến khi được nhận phần thưởng của Bác thì không gì sung sướng bằng. Đặc biệt đối với đồng bào và chiến sĩ địch hậu hồi đó, một tấm ảnh của Bác Hồ thật vô cùng thiêng liêng và quý báu. Vì hoàn cảnh đất nước còn đang chiến tranh, nhân dân địch hậu lòng thì luôn hướng về Bác, nhưng chưa mấy người được nhìn thấy Bác. Bản thân tôi cũng chưa một lần được trông thấy Bác. Hồi cách mạng mới thành công, chúng tôi thường hay hát: “Ai yêu Bác Hồ Chí Minh hơn chúng em nhi đồng. Bác chúng em dáng cao cao, người thanh thanh, Bác chúng em mắt như sao, râu hơi dài…” và cứ thế chúng tôi hình dung Bác Hồ theo từng câu hát, theo trí tưởng tượng của mình, chứ có bao giờ chúng tôi dám mơ ước có một tấm ảnh của Bác riêng cho mình. Thế mà giờ đây, không những tôi có riêng một tấm ảnh Bác Hồ, mà tấm ảnh đó lại là phần thưởng của Bác, có chữ ký của Bác. Đối với tôi, phần thưởng của Bác đã thực sự trở thành một cái mốc son đỏ chói dẫn dắt hướng đi cho cả cuộc đời mình.

Hồi đó, tôi có hai ước nguyện. Một là, sớm được đứng trong hàng ngũ Quân đội nhân dân để tiếp tục chiến đấu giành lại độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc. Hai là, được gặp Bác Hồ. Ước nguyện thứ nhất đã sớm thành sự thật. Tháng 02-1954, tôi tạm biệt du kích quê hương lên đường nhập ngũ. Hành trang của người lính lúc đó rất đơn sơ, đồ đạc mang theo chẳng có gì. Nhưng đối với tôi lúc đó lại có một vật báu vô giá. Đó là tấm ảnh của Bác Hồ. Phần thưởng tinh thần đó đã tiếp thêm cho tôi sức mạnh để vượt qua những khó khăn, gian khổ. Mỗi khi gặp khó khăn là tôi lại nghĩ đến phần thưởng của Bác, nhớ đến lời tâm niệm lúc đầu: Phải công tác và chiến đấu sao cho xứng đáng với ơn Người.

Thật là sung sướng, hạnh phúc, cuộc sống trong quân đội đã giúp tôi đạt được ước nguyện thứ hai của mình. Lần đầu tiên trong đời, tôi được gặp Bác. Đó là vào một ngày cuối tháng 10-1960, khi tôi đang là học viên của Trường Văn hóa quân đội Lạng Sơn, chuẩn bị đi học kỹ thuật quân sự nước ngoài. Lần đó, tất cả cán bộ, học viên, công nhân viên nhà trường được vinh dự đón Bác, nhưng một số học viên xuất sắc được ưu tiên ngồi ở hàng ghế đầu. Tôi cũng được vinh dự là một người trong số đó. Chỗ tôi ngồi chỉ cách Bác chưa đầy 5 m. Cho đến nay, hơn 30 năm đã trôi qua, nhưng kỷ niệm về lần gặp Bác đầu tiên đó vẫn còn mãi mãi in sâu trong ký ức tôi. Tôi vẫn còn như hình dung thấy Bác đang đứng ngay trước mặt mình, cử chỉ nhanh nhẹn, nét mặt hiền từ, giọng nói ấm áp. Tôi vẫn còn nhớ rõ hôm đó, Bác mở đầu buổi gặp mặt bằng lời khen công tác tăng gia của nhà trường có nhiều tiến bộ, nên “trông chú nào cũng béo khỏe cả”. Toàn trường vang lên tiếng cười vui vẻ. Quả thật là hồi đó, đời sống tinh thần, vật chất ở Trường Văn hóa quân đội Lạng Sơn rất khá. Làm theo lời Bác, phong trào tăng gia sản xuất đặc biệt sôi nổi. Chúng tôi thường phân công nhau dậy sớm từ 4 giờ sáng, người thì đi lấy phân, người thì tưới rau. Chuồng lợn của trường thường xuyên ủn ỉn vài chục con. Năm nào nhà trường cũng tự túc được hoàn toàn về rau ăn. Còn thịt thì ngoài việc bảo đảm mức ăn hằng ngày cho bộ đội, các buổi liên hoan, ngày lễ, ngày Tết bao giờ cũng đầy đủ. Hồi đó, chúng tôi là những chàng trai ở vào lứa tuổi hai mươi, ngoài cái hăng say của tuổi trẻ ra, chúng tôi còn nhận thức sâu sắc rằng, tích cực tăng gia sản xuất chính là nghiêm chỉnh thực hiện một trong những lời dạy thường xuyên của Bác đối với quân đội ta. Và thật là sung sướng, hôm nay trường chúng tôi nhận được lời khen của Bác. Lần đầu tiên gặp Bác, lại được ngồi đối diện với Bác nên hầu như toàn bộ tâm trí của tôi tập trung vào Bác, hết nhìn mái tóc bạc phơ, lại nhìn chòm râu trắng như cước. Tôi nhìn và thầm đối chiếu với tấm ảnh Bác, phần thưởng mà tôi được vinh dự nhận cách đây tám năm. Trông Bác đẹp hơn trong ảnh rất nhiều.

Năm đó, Bác vừa tròn tuổi 70. Nhưng da dẻ Bác vẫn hồng hào, dáng đi của Bác vẫn nhanh nhẹn, nét mặt Bác vẫn tươi vui, linh hoạt. Tôi cứ ngắm Bác mải mê thành ra không nhớ hết được đầy đủ những điều Bác dạy, chỉ nhớ được những ý chính: Ngày xưa, nhân dân ta nghèo khổ, rồi lại bị chiến tranh, nên không có điều kiện học tập. Bây giờ các chú được Đảng và quân đội cho đi học, các chú phải cố gắng học cho tốt, để có điều kiện tiếp thu khoa học, kỹ thuật quân sự hiện đại. Bác nói: Đi học cũng là một nhiệm vụ, phải hoàn thành nhiệm vụ học tập như nhiệm vụ chiến đấu và công tác trước đây. Cho đến khi được sang Liên Xô học tập, giữa cuộc sống hòa bình, đầy đủ cả về tinh thần lẫn vật chất, tôi vẫn luôn luôn ghi nhớ lời dạy của Bác, thường xuyên tự răn mình, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng phải phát huy truyền thống, bản chất tốt đẹp của Quân đội nhân dân Việt Nam, sống thật tốt, học thật tốt, để xứng đáng với sự quan tâm giáo dục của Đảng, của quân đội. Trong ba năm xa Tổ quốc, cứ đến ngày 19-5 sinh nhật Bác, tôi lại đem tấm ảnh Bác ra để trên bàn ngắm nhìn, tự mình kiểm điểm lại một năm phấn đấu và rèn luyện, hứa với Bác sẽ cố gắng nhiều hơn để xứng đáng là con cháu của Bác. Học xong, anh em chúng tôi về nước chưa được bao lâu thì xảy ra cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Binh chủng tên lửa phòng không được chính thức thành lập. Tôi được điều về làm đội trưởng một đội sản xuất đạn, thuộc tiểu đoàn kỹ thuật Trung đoàn tên lửa 236. Bước vào thời chiến, ba lô, đồ đạc cần gọn nhẹ. Bao nhiêu năm qua, ba lô của tôi, ngoài quần áo, chăn màn, tôi còn có một gói nhỏ đựng những giấy tờ quan trọng, đặc biệt trong đó có tấm ảnh Bác Hồ, được bọc kỹ bằng hai lần giấy bóng, phần thưởng đáng ghi nhớ nhất của đời tôi. Một lần về phép, khi chuẩn bị trở lại đơn vị, tôi cứ phân vân không biết có nên để gói giấy tờ này lại hay không? Hành trang người lính trong chiến tranh, giảm được vật nào hay vật ấy. Cân nhắc mãi, cuối cùng tôi quyết định để gói giấy tờ lại, nhưng một hành trang tinh thần quý giá nhất - tấm ảnh Bác Hồ, thì tôi vẫn mang theo như 13 năm qua tôi đã mang theo bên mình.

Do góp phần lập được thành tích xuất sắc trong học tập, huấn luyện và chiến đấu, nên ngày 01-9-1965, lần thứ hai trong đời, tôi lại có vinh dự gặp Bác Hồ. Buổi sáng hôm ấy, tôi đang công tác ở đơn vị thì có xe đến đón lên quân chủng, nói là đi công tác. Tôi vừa đến được một lúc thì đồng chí Lê Quang Bửu ở Trường Phòng không cũng đến. Đồng chí Bửu là một giáo viên dạy giỏi của nhà trường, đã có chín năm liền là chiến sĩ thi đua. Xe đưa hai chúng tôi đến Trạm 66. Tại đây đã có một số các đồng chí đại biểu các quân, binh chủng. Chúng tôi được phổ biến là sẽ đến dự buổi chiêu đãi của Chính phủ nhân ngày lễ Quốc khánh lần thứ 20 của đất nước. Tôi sung sướng quá. Thế là sau năm năm kể từ ngày được gặp Bác lần thứ nhất - năm 1960, nay tôi lại có dịp được gặp Bác. Thật chưa bao giờ tôi được dự một buổi chiêu đãi long trọng như thế. Đèn điện sáng trưng trong khu vườn Phủ Chủ tịch. Những dãy bàn phủ khăn hoa, kê sát nhau trên sân phía sau ngôi nhà lớn. Hầu hết các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước và quân đội đều có mặt.

Hôm đó có rất đông khách nước ngoài. Trên các dãy bàn bày sẵn thức ăn, bánh, kẹo, bia, rượu. Lần đầu tiên được dự một buổi chiêu đãi lớn nên tôi rất bỡ ngỡ. Đồng chí Lê Quang Bửu cũng không hơn gì tôi. May có chị Nguyễn Thị Chiên - Anh hùng quân đội, hôm ấy cũng là đại biểu trong đoàn quân đội, hướng dẫn cho, nên tôi cũng đỡ lúng túng. Vui nhất, sung sướng nhất, và cũng sôi nổi nhất là khi Bác Hồ xuất hiện. Tuy đã vào tuổi 75, trông Bác vẫn hồng hào, khỏe mạnh, hoạt bát như cách đây năm năm tôi được gặp Bác ở Lạng Sơn. Cũng như lần gặp Bác trước đây, từ khi Bác xuất hiện, tâm trí tôi đổ dồn về phía Bác. Tôi chăm chú ngắm nhìn Bác, quên cả ăn, quên cả uống. Thậm chí khi mọi người nâng cốc chúc mừng nhân ngày lễ lớn, tôi cũng suýt quên. Quả thực là lúc đó tôi cảm động vô cùng, mắt nhìn Bác mà lòng thì cứ nghĩ đến công ơn của Người. Nhờ có Bác, có Đảng, mà tôi từ người chiến sĩ du kích trở thành cán bộ trong một binh chủng hiện đại của Quân đội nhân dân Việt Nam, hôm nay lại vinh dự có mặt trong buổi lễ long trọng này và được gặp Bác. Mặc dù trong một không khí rất vui, mà nước mắt tôi cứ rưng rưng. Bác nhanh nhẹn bước đi giữa các hàng ghế, tươi cười nói chuyện với người này, bắt tay thăm hỏi người kia. Đặc biệt đối với các khách nước ngoài, cử chỉ của Bác thật tự nhiên, lịch thiệp mà thân tình. Nhìn Bác, tôi càng thấy tự hào biết bao khi dân tộc Việt Nam ta có một vị lãnh tụ như Bác. Tôi cũng thấy trên nét mặt các vị khách nước ngoài một niềm quý trọng đặc biệt đối với Người. Càng nhìn Bác, tôi càng cảm thấy một niềm hạnh phúc lớn lao trào dâng trong tâm hồn, khi được cùng với thế hệ của mình sống và chiến đấu dưới lá cờ vẻ vang của Bác Hồ vĩ đại.

Sau ngày bộ đội tên lửa ra quân đánh thắng trận đầu, Bác Hồ đã dành thời gian đến động viên và dạy bảo. Chúng tôi được học tập, quán triệt những lời dạy của Bác. Tôi nhớ nhất bốn ý chính: Một là, phải có lòng tin tuyệt đối vào Đảng, tin vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn. Hai là, phải có quyết tâm cao. Có quyết tâm cao thì làm gì cũng được. Ba là, phải có tinh thần đoàn kết thương yêu nhau, chiến đấu hiệp đồng, lập công tập thể. Bốn là, phải luôn luôn nêu cao tinh thần vượt khó khăn, gian khổ. Cuộc chiến đấu với máy bay giặc Mỹ ở miền Bắc có nhiều khó khăn, gian khổ, hy sinh, nhưng so với sự hy sinh của đồng bào miền Nam thì chưa thấm vào đâu. Phải noi gương đồng bào miền Nam để đánh giỏi hơn nữa, giành thắng lợi to lớn hơn nữa.

Sự quan tâm và lời dạy bảo ân cần của Bác đã thực sự tạo nên một phong trào thi đua sôi nổi trong toàn Quân chủng Phòng không - Không quân hồi đó nói chung và bộ đội tên lửa nói riêng. Bệ phóng của các đơn vị như có thêm sức mạnh, liên tục giành thắng lợi giòn giã trong các trận đánh tiếp theo. Bộ đội càng đánh nhiều, thắng lớn thì đơn vị kỹ thuật phục vụ chiến đấu chúng tôi càng căng thẳng, vất vả. Vấn đề nổi lên lúc này đối với chúng tôi là làm sao sản xuất đạn kịp thời, đáp ứng yêu cầu chiến đấu của các tiểu đoàn hỏa lực đang tỏa đi các hướng tiền phương. Có đơn vị vào tận Ninh Bình, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, có đơn vị đến tận Phú Thọ, Yên Bái. Bảo đảm đủ đạn đã là khó, nhưng khó hơn, quan trọng hơn là bảo đảm an toàn, bảo đảm kỹ thuật. Khi người sĩ quan điều khiển bấm nút, đạn không rời bệ phóng, hoặc đạn có bay lên nhưng lại bay ra ngoài quỹ đạo thì trận đánh sẽ không giành được thắng lợi. Quán triệt sâu sắc lời dạy của Bác về tinh thần hiệp đồng chiến đấu, lập công tập thể, cán bộ, chiến sĩ thuộc tiểu đoàn kỹ thuật chúng tôi đã không quản ngày đêm, sớm tối, lo lắng cho từng quả đạn ra đời, chuyển đến tận đơn vị, bảo đảm đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Chúng tôi có thể vui mừng, tự hào, trong chiến công chung của toàn trung đoàn, có sự đóng góp xứng đáng của cán bộ, chiến sĩ đơn vị kỹ thuật chúng tôi.

Sau khi tên lửa của ta bất ngờ xuất hiện, Lầu năm góc chỉ thị cho bọn không quân của chúng tìm cách tiêu diệt các bệ phóng của ta. Chúng đã nhiều lần đánh phá trận địa của các tiểu đoàn hỏa lực, gây nên một số thiệt hại đáng tiếc. Ngày 17-10-1965, địch tổ chức đánh phá có tính chất hủy diệt Tiểu đoàn 82, Trung đoàn 238. Đúng 20 ngày sau, ngày 07-11-1965, đến lượt cơ sở sản xuất đạn của Tiểu đoàn chúng tôi bị đánh phá dữ dội. Lần đó, ngay sau đợt bom thứ nhất, tuy chưa bị trúng khu chứa khí tài, nhưng cũng đã gây ra một số thiệt hại. Tôi đã bình tĩnh hướng dẫn toàn đội xử trí băng bó cho các đồng chí bị thương, rồi dìu vào nơi an toàn. Giữa lúc đó, địch quay trở lại đánh phá lần thứ hai. Lần này chúng kéo đến đông hơn, đánh phá quyết liệt hơn. Một quả bom nổ cách chỗ tôi chừng tám mét. Cả người tôi như bị nhấc bổng lên. Khi tôi mở mắt ra thì thấy mình đã bị vùi lấp dưới đất đá, người đau ê ẩm, tai ù đặc, miệng đắng ngắt, mắt hoa, đầu choáng váng. Giữa lúc đó, đồng chí Trần Hợi, người Chính trị viên thân thiết và gần gũi với tôi như hình với bóng trong suốt thời gian qua, đã cùng với một chiến sĩ kịp đến đào bới với tôi. Nhưng khi vừa đứng lên, chúng tôi nhìn thấy những quả đạn tên lửa phơi mình trắng xóa, còn xung quanh thì một đám lửa đang rừng rực bốc cháy. Một tình huống hết sức nguy hiểm. Lửa cháy có nguy cơ bén vào chất nổ, sẽ gây thiệt hại không lường hết được. Mà sự thiệt hại của Tiểu đoàn kỹ thuật, nơi ra đời của những quả đạn, nơi góp phần chủ yếu bảo đảm chiến đấu liên tục cho các đơn vị hỏa lực, sẽ ảnh hưởng đến sức chiến đấu của toàn Trung đoàn. Phải tìm cách dập tắt ngay ngọn lửa. Ý nghĩ đó thoáng nhanh trong óc tôi. Không một chút do dự, quên hết cả mệt nhọc, tôi vừa lao vào đám cháy, vừa hô lớn: “Cứu lấy đạn! Các đồng chí đảng viên, đoàn viên, hãy về vị trí chiến đấu của mình”. Đồng chí Chính trị viên Trần Hợi cũng tập hợp ngay một số đồng chí, xông vào, mặc cho sức nóng của lửa, mặc cho tiếng máy bay địch đang gầm rú trên đầu, chúng tôi vẫn tiến vào dập các đám cháy một cách quyết liệt và tinh thần dũng cảm của các chiến sĩ đã dần dần đẩy lùi được nguy cơ do địch gây ra.

Lại một đợt bom thứ ba của địch ném xuống. Lần này tôi lại bị đất vùi. Khói bom, đất bụi làm cho mắt tôi như có hàng trăm mũi kim châm vào, vô cùng nhức nhối, khó chịu. Tôi đưa tay lên mắt, thấy máu trào ra, ướt đẫm. Tôi nghĩ bụng, thế là mình bị thương vào mắt rồi. Lúc đó lời dạy của Bác cứ vang lên: "Đoàn kết một lòng, không sợ hy sinh gian khổ" như tiếp thêm sức mạnh chiến đấu cho tôi. Tôi liền quyết định không cho phép mình lui về tuyến sau, phải cùng anh em tiếp tục xông vào cứu đạn. Sau một trận vật lộn với lửa, số đạn và khí tài đã được cứu thoát. Chúng tôi đã thắng giặc Mỹ như trong một trận chiến đấu thực sự. Ai nấy đều cảm thấy tự hào và vui sướng. Riêng tôi, trong trận đó, phải chịu một tổn thất to lớn. Đó là tấm ảnh có chữ ký của Bác Hồ mà tôi đã giữ gìn trong suốt 13 năm, bị thiêu cháy. Tôi cứ tiếc và ân hận mãi. Nhưng sau đó tôi nghĩ, khi tình hình nguy cấp, mình đã xông vào cứu đạn, cứu khí tài trước hết, thì đó chính là điều Bác vẫn thường xuyên dạy bảo chúng tôi. Tuy bị mất đi một kỷ vật nhưng mình làm đúng những lời từng thầm hứa với Bác.

Bước sang năm 1966, đế quốc Mỹ đẩy mạnh cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam và leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc. Chúng bắn phá Hà Nội và Hải Phòng. Để động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước, Bác Hồ ra lời kêu gọi ngày 17-7-1966. Bác nói: "Chúng có thể đưa 50 vạn quân, 1 triệu quân hoặc nhiều hơn nữa để đẩy mạnh chiến tranh xâm lược ở miền Nam Việt Nam. Chúng có thể dùng hàng nghìn máy bay, tăng cường đánh phá miền Bắc. Nhưng chúng quyết không thể lay chuyển được chí khí sắt đá, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng". Người nêu lên chân lý bất diệt: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do!". Tiếp theo lời kêu gọi lịch sử của Bác, để biểu dương tinh thần chiến đấu của chiến sĩ và đồng bào, Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước lần thứ nhất đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội.

Tôi được vinh dự tham gia đại hội lịch sử đó. Bác Hồ và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã dành cho Đại hội sự chăm sóc đặc biệt, một tình yêu thương hết sức đằm thắm. Bác dự trọn với đại hội lễ khai mạc và sau đó hầu như ngày nào cũng đến thăm chúng tôi. Bác chia đều niềm vui cho tất cả mọi người. Không có đoàn nào không được Bác hỏi thăm ít nhất một lần. Không có đại biểu nào lại không có dịp được gần Bác. Trong những ngày đại hội, tôi được may mắn ngồi ở hàng nghế thứ ba, phía sau mẹ Suốt, cách Đoàn Chủ tịch chỉ dăm mét nên lại có dịp được nhìn ngắm Bác.

Tôi không thể nào quên được những giây phút tưng bừng nhất, đầm ấm nhất trong ngày 01-01-1967. Hôm đó, Bác gặp mặt và chiêu đãi các anh hùng và chiến sĩ thi đua vừa được Nhà nước tuyên dương. Hôm ấy Bác rất vui, hồng hào, khỏe mạnh. Bác nhanh nhẹn bước đi dọc các hàng ghế, ân cần thăm hỏi các đại biểu. Tôi đang ngây ngất trong niềm vui chung với mọi người thì bất ngờ Bác chỉ thẳng vào tôi, âu yếm bảo:

- Cháu cầm càng cho tất cả cùng hát.

Giây phút đầu tiên tôi hết sức lúng túng. Thấy vậy, Bác nhìn tôi như khuyến khích:

- Cháu hãy mạnh dạn lên.

Thế là tôi đứng dậy, cất cao giọng, bắt nhịp cho mọi người hát bài Kết đoàn quen thuộc. Tất cả mọi người hát rất đều. Tôi phấn khởi quá, vừa bắt nhịp, vừa đưa mắt nhìn Bác. Và sung sướng biết bao, tôi thấy Bác cũng đang hòa chung tiếng hát với mọi người. Hát hết bài Kết đoàn, thấy mọi người vẫn đang dạt dào niềm vui, và thấy Bác vẫn nhìn tôi như khích lệ, tôi lại cất cao giọng, cầm càng cho mọi người hát tiếp bài Giải phóng miền Nam. Cả hội trường lại bừng lên không khí hào hùng, tràn đầy khí thế quyết chiến, quyết thắng. Tất cả vỗ tay theo nhịp của bài hát, Bác cũng vỗ tay, rất nhiệt tình. Mọi người hát say sưa, như để biểu lộ với Bác, hứa với Bác, nguyện đoàn kết để chiến thắng, để giải phóng miền Nam.

Buổi gặp mặt của Bác với chúng tôi ngày Mồng 1 Tết dương lịch năm 1967 đó đã là một kỷ niệm đằm thắm, đẹp đẽ, mãi mãi không bao giờ quên. Chúng tôi như đàn con cháu được trở về sum họp trong gia đình mà Bác là người ông, người cha rất đỗi hiền từ, thân thiết và được nghe những lời dạy bảo ân cần, hết sức quý báu của Bác: Có anh hùng là nhờ có tập thể anh hùng. Có tập thể anh hùng là nhờ có nhân dân anh hùng, dân tộc anh hùng, Đảng anh hùng. Bác còn căn dặn chúng tôi thực hiện tốt hai điều chớ và hai điều nên:

Chớ tự cao tự đại.

Chớ có chủ nghĩa cá nhân.

Nên cố gắng học tập để không ngừng tiến bộ.

Nên đoàn kết thương yêu giúp đỡ nhau.

Đêm hôm đó, trở về chỗ nghỉ dành riêng cho các đại biểu Đại hội, tôi cứ thao thức mãi không sao ngủ được. Niềm vui và hạnh phúc đến với tôi lớn quá. Rất khuya, tôi vẫn trằn trọc với bao nhiêu ý nghĩ, bao nhiêu tình cảm xao xuyến trong lòng. Tôi nghĩ về công ơn của Bác, của Đảng. Bác và Đảng đã vạch ra mục tiêu và con đường chiến đấu giải phóng dân tộc. Theo con đường Bác vạch ra, hôm nay con cháu Bác đã trưởng thành. Rồi chính Bác lại dành cho chúng tôi vinh dự lớn lao này: Người trực tiếp chăm sóc dạy bảo chúng tôi. Ở giường bên, Anh hùng không quân Nguyễn Văn Bảy hình như cũng không ngủ được. Tôi thấy anh trở mình luôn. Có lẽ anh cũng đang cùng một tâm trạng như tôi.

Sau Đại hội anh hùng và chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước lần thứ nhất, tôi còn được vinh dự gặp Bác nhiều lần. Đó là những lần được tham gia Đoàn chủ tịch một cuộc mít tinh lớn, hoặc tham dự một buổi chiêu đãi của Chính phủ do Bác chủ trì. Ngày 19-5-1968, cùng với đoàn đại biểu quân đội, tôi được lên chúc thọ Bác ở Phủ Chủ tịch. Đồng chí Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, giới thiệu từng người với Bác. Tôi lại vinh dự được Bác bắt tay và thăm hỏi, được Bác khen trẻ, khỏe. Hôm đó, lần đầu tiên, tôi thấy sức khỏe của Bác không còn được như xưa nữa. Cầm bàn tay gầy của Bác trong hai bàn tay của mình, tôi bỗng cảm thấy lo lắng và thương Bác vô cùng. Sức khỏe của Bác có thể không được tốt, nhưng Bác vẫn quan tâm hỏi thăm sức khỏe của chúng tôi, tình hình công tác của chúng tôi. Cầm tay Bác mà lòng tôi tràn ngập xúc động không sao ngăn được nước mắt. Chưa đầy chín tháng sau, tâm trạng đó lại trở lại trong khi tôi được cùng với đại biểu các đơn vị trong toàn quân chủng đón Bác đến thăm nhân dịp Tết Kỷ Dậu - ngày 16-02-1969. Tay chống gậy, Bác đến từng bàn ở phía trên, bắt tay các đại biểu. Tôi lại được cầm tay Bác hồi lâu trong hai bàn tay của mình và lòng bỗng thấy nao nao xúc động khi thấy bàn tay Bác trước đã gầy, giờ lại gầy thêm và hơi lạnh. Nhưng giọng nói và ánh mắt của Bác thì vẫn hiền từ và ấm áp như xưa. Bác lại ân cần hỏi thăm chúng tôi về tình hình công tác, tình hình sức khỏe. Hôm đó, tôi có may mắn đặc biệt là các nhà nhiếp ảnh đã bù lại cho tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí phóng viên nhiếp ảnh đã kịp ghi lại cho tôi cái giây phút đặc biệt đó - giây phút bàn tay tôi được nằm trong bàn tay của Bác. Tôi có ngờ đâu đó là lần cuối cùng tôi được bắt tay Bác, được Bác ân cần dạy bảo. Chính vì thế mà tấm ảnh đó đối với tôi, với gia đình tôi lại càng vô cùng quý giá, trở thành một kỷ vật không gì so sánh được. Bố tôi đã chọn nơi trang trọng nhất trong nhà để treo tấm ảnh đó. Từ ngày có tấm ảnh mới này, nỗi ân hận vì tấm ảnh Bác lần trước bị mất trong chiến tranh vợi đi được một phần nào trong tôi. Tôi xem đây như là phần thưởng cuối cùng Bác để lại cho tôi trước khi Bác đi xa.

Ít lâu sau, trong tuần lễ tang Bác, được đứng túc trực bên linh cữu Bác quàn ở Hội trường Ba Đình, tôi đã thầm hứa với Bác, nguyện suốt đời chiến đấu theo con đường của Bác, của Đảng: Vì sự nghiệp độc lập, thống nhất Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì dân giàu, nước mạnh. Tôi cũng tự thề trước linh cữu Bác rằng: Phải sống xứng đáng với Bác khi Bác còn sống và càng phải sống xứng đáng hơn khi Bác đã đi xa.

(Đại tá Nguyễn Tuyên, trích trong "Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")

159. Đánh Mỹ trên quê Bác

Mùa Xuân 1968 trong khí thế cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt của quân và dân miền Nam anh hùng, chúng tôi đã đến quê hương Bác. Ước mơ từ lâu của cán bộ, chiến sĩ Phân đội 69, đoàn Sóc Sơn được chiến đấu trên mảnh đất kiên cường của quê Bác hôm nay đã đến. Chúng tôi tự nhủ; Bác đã dạy: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân…, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng…”, giờ đây được chiến đấu trên quê Bác, phải làm sao cho xứng đáng với lời Bác dạy, đánh thắng địch ngay từ trận đầu, hạ tại chỗ bọn cướp Mỹ ngay trên đất Nghệ An để mừng thọ Bác!

“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Lời Bác như tiếng kèn xung trận, thúc giục quân và dân cả nước nức lòng làm theo lời Bác, sẵn sàng tiêu diệt giặc Mỹ. Chúng dẫn xác đến ban ngày hay ban đêm, từ bất kỳ đâu đến, quân và dân Xôviết đã liên tiếp lập công xứng đáng.

Trong hàng ngũ chúng tôi hôm nay có người đã chiến đấu ở Điện Biên lịch sử hay trên các chiến trường từ chín năm chống Pháp. Nhưng phần lớn là lớp trẻ, tuổi đời mới mười chín, đôi mươi như sĩ quan điều khiển Nguyễn Trung Đông, như các trắc thủ Dưỡng, Đoán, Lợi, Công… Chúng tôi bảo nhau: Chiến đấu trên quê hương Bác là một vinh dự, dù tình huống nào cũng chỉ cho phép ta đánh thắng. Và những bệ phóng của chúng tôi dựng lên ngay trong đêm ấy.

Đêm 25-4-1968, bộ đội và đồng bào cùng nhau đắp trận địa. Các mẹ, các chị, các anh, các em, người làm đường, người đắp ụ, người chặt lá ngụy trang. Quê Bác ngày xưa với gậy gộc, súng kíp, mã tấu, dao găm, tên tre, đến nay đã có thêm tên lửa diệt thù. Nhiều bà mẹ cảm động đến rưng rưng nước mắt…

Ngay đêm hôm đó, Đảng ủy quân đội đã họp hạ quyết tâm. Mỗi cán bộ, chiến sĩ rạo rực như một ngày hội lớn. Người sửa sang, kiểm tra đạn, người xem lại bệ phóng. Cán bộ tham mưu khẩn trương làm phương án. Bà con chỉ cho hướng địch thường xuyên bay vào, nơi địch thường xuyên đánh phá, chúng thường bay vào lúc nào, loại gì… Trên tấm bản đồ, Phân đội trưởng Thái Hiệp, các sĩ quan điều khiển, trắc thủ và các cán bộ khác chụm đầu phân tích tình hình địch, chọn ra những đường bay cơ bản. Những ánh mắt sáng thông minh, những khối óc mưu trí cùng tìm cách đánh địch. Nét chì xanh, đỏ vạch lên tờ giấy trắng tinh, ngón tay lia theo đường chì phân tích. Tất cả đi đến nhất trí cách tiến công. Máy lại nổ như tiếng trống thúc quân của Xôviết năm xưa, bên dòng sông Lam uốn khúc. Những quả đạn quay theo các hướng, lúc vươn lên nhọn hoắt, khi từ từ trở lại vị trí đợi chờ. Bàn tay các trắc thủ ôm vòng lái nhẹ nhàng, mắt chăm chú làm quen với sóng điện tử từ rú Hồng, rú Mượn quê Bác dội về nhấp nháy. Mọi người tập cho quen, nắm cho chắc địa thế, kiên quyết lọc ra những tên kẻ cướp hay lợi dụng núi non luồn lách gây tội ác. Với khẩu hiệu: “Địch thế nào ta tìm cách đánh như thế” mà tập luyện.

Và giờ lập công đã đến. Giặc Mỹ lại quen lao vào đường cũ. Chúng lượn vòng qua núi X, thăm dò rồi đột nhiên chọc một mũi, địch bất ngờ đánh lén. Nhưng thoát sao được. Cả phân đội bám sát địch từng ly. Ầm! ầm! Tên lửa chớp rạch chân trời lao về hướng địch. Chúng cơ động! Muộn rồi. Một chiếc bị xé đôi trong tiếng nổ khủng khiếp của quả đạn, bốc thành hai khối lửa theo đà lao nhanh xuống đất. Lúa, khoai quê Bác phơi phới reo vui.

Những con đường nhộn nhịp xe ra tiền tuyến như chở thêm cả chiến công đi. Có lẽ ở Thủ đô hôm nay, khi nghe tin chiến thắng mới, Bác Hồ chúng ta khỏe hơn, Bác sẽ dừng bút nhìn về hướng nam cười vui, khen đồng bào Nghệ An chiến thắng, khen bộ đội của Bác ngoan cường, cảnh giác. Cán bộ, chiến sĩ đoàn Sóc Sơn vui mừng trước chiến công nhưng không ngừng xốc tới, cùng với đồng bào cả nước xông lên đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược.

Chỉ trong một thời gian, Phân đội 69 đã bắn tan xác ba máy bay địch kể cả ban ngày lẫn ban đêm, có hai chiếc rơi tại chỗ. Sóc Sơn - nơi kết thúc trận thắng giặc Ân oanh liệt của Phù Đổng, người anh hùng cưỡi ngựa sắt đánh giặc giữ nước tượng trưng cho sức mạnh vô địch của dân tộc Việt Nam anh hùng có truyền thống chống ngoại xâm mà đoàn mang tên, đã tăng sức cho đoàn lớn mạnh. Bây giờ, được chiến đấu trên mảnh đất Nghệ An, sục sôi truyền thống cách mạng cổ vũ toàn đoàn càng vững vàng bên bệ phóng.

Với lòng kính yêu Bác, chiến công mới của đơn vị như bông hoa rực rỡ kính dâng lên chúc thọ Người 78 tuổi.

(Theo Sơn Lê kể, trích trong "Theo dấu chân Bác")

Tâm Trang (tổng hợp)


 160. Đoàn Sóng Điện nhớ Bác Hồ

Thật bất ngờ và hạnh phúc, một buổi sáng mùa Hè năm 1966, Bác Hồ đã đến với chúng tôi, những cán bộ, chiến sĩ Đại đội 6, Đại đội 12 thuộc Đoàn thông tin Sóng Điện... Không ai báo trước cho chúng tôi để chúng tôi đón Bác. Ban Chỉ huy Trung đoàn cũng không biết. Đến cả Bộ Tư lệnh Quân chủng cũng không hay. Mãi sau này chúng tôi mới biết đó là tác phong của Bác. Đi thăm đâu cũng bất ngờ, không "tiền hô hậu ủng". Bác thường nói với các đồng chí cán bộ giúp việc là có như thế mới vừa giữ được bí mật, vừa nắm được thực chất tình hình. Nghe nói có lần một cơ quan nọ biết Bác sẽ đến thăm và biết Bác thích nơi nào cũng có vườn hoa cây cảnh, liền bắt anh em làm suốt đêm để biến một cái sân gạch thành một "vườn hoa". Hôm sau Bác đến phát hiện ra "vườn hoa" có dấu hiệu úa héo liền cầm một cây thử nhổ lên. Thế là bị bắt quả tang... Bác nói với đồng chí lãnh đạo cơ quan ấy, giọng không vui: "Các chú làm như thế này để làm gì? Bác thích hoa, thích cây, nhưng là hoa thật, cây thật, chứ không phải là hoa giả, cây giả như thế này. Các chú cần nhớ là trong công tác cũng như trong cuộc sống thường ngày, cái thật bao giờ cũng đẹp, cũng quý hơn cả". Lần này Bác đến với chúng tôi trong lúc chúng tôi đang phân tán mỗi người mỗi việc. Khi thấy chiếc ôtô con dừng lại ở chân dốc và một cụ già từ trong xe bước xuống, một chiến sĩ trông thấy liền reo lên:

- Bác Hồ! Các đồng chí ơi! Bác Hồ!

Bác Hồ giơ tay ngang mặt ra hiệu và nói nhỏ với đồng chí chiến sĩ ấy, giọng thân mật:

- Chú nói khẽ thôi kẻo lộ bí mật.

Rồi Bác bảo dẫn Bác lên thăm đơn vị. Nhưng đơn vị lúc đó chỉ có Đại đội phó Dinh và tổ anh nuôi đang làm nhiệm vụ. Sáng hôm ấy, Đại đội 6 công trình và Đại đội 12 vô tuyến điện chúng tôi, sau khi hoàn thành lắp ráp các thiết bị thông tin liên lạc trong Sở chỉ huy dự bị của quân chủng, đang tiếp tục triển khai các công việc khác ở vòng ngoài.

Năm 1966, tuy đã ở tuổi 76, trông Bác vẫn hồng hào khỏe mạnh. Bác bước rất nhanh lên sườn đồi, đôi dép cao su êm nhẹ dưới chân, chiếc áo lụa màu nâu bay bay trong gió, cùng với mái tóc và chòm râu bạc phơ, lại giữa khung cảnh núi đồi tĩnh mịch của chùa chiền nên trông Bác như một ông tiên.

Nơi đầu tiên Bác vào là nhà bếp của đơn vị. Các đồng chí nuôi quân vừa thấy Bác liền lập tức ngừng công việc ùa ra đón như đàn cháu thấy người ông đi xa lâu ngày trở về. Bác cười hiền từ vẫy tay đáp lại. Bác xem nơi nấu cơm, rồi ra chuồng lợn. Bác khen chuồng sạch, lợn béo. Tiếp đó Bác hỏi việc tăng gia. Đại đội phó Dinh báo cáo ở đây toàn núi đá, đất ít, nước hiếm nên khó trồng rau. Bác nói hồi ở Chiến khu Việt Bắc cũng có nơi cơ quan của Bác đóng rất hiếm đất, anh em trong cơ quan đã chuyển đá đi nơi khác rồi mang đất bùn ở dưới suối lên thay vào để trồng rau, bí, kết quả rất tốt, mùa nào cũng đủ rau ăn, có lúc còn dư thừa, đem biếu cơ quan bạn. Bác nói: "Chỉ cần có quyết tâm thì làm gì cũng được. Có trồng, có ăn. Các chú chịu khó tăng gia, tự cung tự cấp để đỡ một phần đóng góp của nhân dân". Bác còn nói vui: "Khi nào trồng được rau các chú gửi lên biếu Bác một bó". Chúng tôi nghe Bác nói mà cảm thấy vô cùng thấm thía. Rõ ràng là chúng tôi chưa thật cố gắng, còn cho mình là bộ đội chiến đấu thì Chính phủ phải cung cấp đầy đủ.

Trở lại nhà ăn, Bác mở lồng bàn xem kỹ một mâm cơm, hỏi anh em ăn như thế này có đủ no, đủ chất không? Bác động viên các đồng chí nuôi quân cố gắng nấu nướng cho tốt để bộ đội ăn ngon, ăn hết, mới bảo đảm sức khỏe, công tác và chiến đấu. Nhìn bảng kinh tế công khai của đơn vị, Bác thấy ngày hôm ấy chi ăn quá 1 đồng. Bác hỏi và khi đồng chí quản lý thưa với Bác là hôm nay anh em đi lao động ngoài trời nặng nhọc nên Ban chỉ huy đại đội đồng ý chi thêm để tăng chất lượng nồi canh lên một chút. Nghe xong Bác khen bảo đảm cho đơn vị ăn hết tiêu chuẩn như thế là tốt. Nhưng muốn cải thiện thì phải tăng gia sản xuất thêm. Bác còn gợi ý nên tiết kiệm mỗi ngày một ít để hằng tuần, hằng tháng tổ chức cho anh em ăn tươi một lần.

Sau đó Bác vào phòng câu lạc bộ của đơn vị. Bác dừng lại khá lâu trước bức tranh Nguyễn Văn Trỗi, Lý Tự Trọng, và tờ báo tường của đơn vị. Bác khen ở đơn vị mà tổ chức được nhà câu lạc bộ, lại có cả báo tường như thế là tốt. Lúc này Chính trị viên phó mới biết Bác đến, vội chạy ra đứng nghiêm báo cáo. Bác cười bảo, Bác đã xem hết rồi còn báo cáo gì nữa. Bác dặn là cần cặp đủ báo để anh em thay nhau đọc. Dù thiếu thốn, gian khổ đến mấy cũng cần phải bảo đảm thật tốt đời sống văn hóa cho chiến sĩ. Tin Bác đến như một làn sóng điện truyền nhanh đến các bộ phận. Chẳng bao lâu cả hai đại đội đã tập hợp trước sân chùa, cả bộ phận công tác xa nhất cũng đã về đủ để nghe Bác nói chuyện. Bác nói về tình hình và âm mưu địch, về nhiệm vụ và quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta. Về nhiệm vụ của đơn vị, Bác nói: "Công tác thông tin liên lạc là một công tác rất quan trọng, nó như thần kinh, mạch máu của con người. Do đó, nhiệm vụ của các chú rất quan trọng. Các chú phải cố gắng làm thật tốt nhiệm vụ của mình". Bác hỏi trình độ văn hóa của anh em rồi căn dặn: "Muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ các chú phải vừa chiến đấu vừa không ngừng học tập, nâng cao trình độ kỹ thuật. Muốn học tập kỹ thuật tốt, phải học văn hóa". Về kỷ luật của bộ đội thông tin Bác dạy: "Đây là Sở chỉ huy quân chủng nên các chú phải hết sức giữ bí mật. Bác nhắc lại là phải giữ bí mật thật tốt, có như thế mới đánh thắng được địch".

Sau khi hỏi chúng tôi có biết là hiện nay miền Bắc đã bắn rơi được bao nhiêu máy bay giặc Mỹ, và đồng chí Hồi đã trả lời đúng, được Bác khen, Bác tiếp tục nói với chúng tôi: "Là bộ đội thông tin các chú phải nắm vững tin tức, tình hình, chủ trương, chính sách của Đảng và Chính phủ. Biết để thực hiện cho tốt, rồi còn để tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân địa phương, để nhân dân hiểu và thông suốt cùng mình thực hiện".

*

* *

Hôm ấy Bác ở lại và làm việc suốt một ngày ở trong chùa Trầm, Bác bảo chúng tôi, các chú cứ làm việc của các chú, Bác làm việc của Bác. Cùng làm việc hôm ấy với Bác còn có đồng chí Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, đồng chí Trần Quốc Hoàn, Bộ trưởng Công an, đồng chí Hoàng Hữu Kháng, bảo vệ và đồng chí Lê Hoàng.

Sau này chúng tôi mới biết là hôm đó Bác muốn chọn một nơi thật yên tĩnh để hoàn thành văn kiện lịch sử "Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước", kịp công bố vào ngày 17-7-1966. Và chính điều đó đã làm cho niềm vinh dự của chúng tôi, niềm hạnh phúc của chúng tôi được nhân lên gấp bội... Chúng tôi có ngờ đâu là trong cái ngày 13-7-1966 ấy, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 6, Đại đội 12 Đoàn thông tin Sóng Điện, được ở gần Bác, được chứng kiến nơi đã sản sinh ra lời hịch thiêng liêng của Bác Hồ với những câu nói bất hủ: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do".

Giữa buổi làm việc buổi chiều, Bác nghỉ tay xuống nhà bếp thăm hỏi các đồng chí anh nuôi. Bác lấy bao thuốc chia cho mỗi người một điếu, nhưng không ai hút mà đều cất đi. Bác cũng lấy cho mình một điếu, rồi nhìn quanh tìm đóm để châm lửa. Thấy vậy một đồng chí anh nuôi vội chạy lại đưa cho Bác bao diêm. Nhưng Bác lắc đầu và nói: "Cả bếp lửa đang hồng thế kia tha hồ mà dùng sao lại lãng phí một que diêm. Chú dành diêm để mà nhóm bếp. Chú có biết phải qua tay bao nhiêu người mới làm ra được một que diêm không? Đất nước ta còn nghèo, lại đang có chiến tranh nên càng phải tiết kiệm".

Câu chuyện về que diêm sau này trở thành một bài học sâu sắc trong toàn đơn vị mà Bác Hồ đã để lại cho chúng tôi. Một việc nhỏ thôi, một que diêm thôi mà bài học thì thật lớn. Mới hay rằng sự vĩ đại thường bắt nguồn từ sự bình thường nhất, giản dị nhất. Trông thấy một ít cơm rơi vãi quanh bếp và ở rãnh nước, Bác liền phê bình: "Các chú để cơm rơi vãi như thế là không nên. Bà con nông dân phải một nắng hai sương mới làm ra được hạt gạo nên các chú phải hết sức tiết kiệm, tránh lãng phí".

Lúc đi dạo quanh chùa, Bác phát hiện ra một con đường mòn bị rào lại. Bác hỏi nguyên nhân tại sao. Khi được biết đó là con đường nhân dân vẫn thường dùng để đi làm, nay đơn vị về triển khai Sở chỉ huy nên rào lại để giữ bí mật. Nghe vậy Bác hỏi ngay: Thế nhân dân đi đường nào? Trước câu hỏi của Bác chúng tôi đều bị bất ngờ không trả lời được. Bởi vì chúng tôi đâu có quan tâm đến chuyện đó. Và một bài học thứ hai nữa vô cùng thấm thía đã đến với chúng tôi, khi được nghe Bác nghiêm khắc dạy bảo: "Các chú làm như thế là không được. Cấm đường để giữ bí mật quân sự là đúng, nhưng các chú phải đắp con đường khác để nhân dân đi chứ. Đó là chưa nói đến việc các chú rào đường mà không xin ý kiến Đảng bộ, chính quyền và nhân dân địa phương là khuyết điểm lớn. Giả sử ở nhà các chú có một lối đi, có người tự dưng rào lại, bắt các chú phải chịu, liệu các chú có chịu được không? Nhân dân có con đường để làm ăn sinh sống, quân đội mang tiếng là quân đội nhân dân lại đi ngăn lại như vậy, làm ảnh hưởng đến việc làm ăn của nhân dân là không đúng, không nên". Sau khi nghiêm khắc phê bình chúng tôi, Bác hiền từ vạch ra hướng khắc phục, sửa chữa: "Bây giờ các chú phải vào trực tiếp xin lỗi dân và làm ngay một con đường mới để nhân dân đi làm, nhân tiện trồng cây xanh hai bên cho mát mẻ, sau này nếu mình chuyển đi nơi khác sẽ là một công trình của bộ đội để lại một kỷ niệm đẹp trong lòng dân". Bác cho chúng tôi hạn một tuần, làm xong báo cáo cho Bác biết. Chúng tôi đã thi đua cùng với đoàn tên lửa Sông Đà đóng quân gần đấy, thực hiện đúng lời Bác, chỉ một tuần sau làm xong con đường, được nhân dân hết sức hoan nghênh. Nhiều cụ già trong làng vuốt râu tấm tắc khen: "Như vậy mới đúng là bộ đội Cụ Hồ chứ".

*

* *

Chiều gần tối, Bác và các đồng chí cùng đi mới lên xe ra về. Trước lúc chia tay, Bác còn ân cần căn dặn chúng tôi: "Các chú phải thường xuyên rèn luyện để thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng. Phải giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quân dân, làm cho nhân dân tin yêu bộ đội, giúp đỡ và bảo vệ bộ đội. Có dựa vào dân, đoàn kết với dân mới bảo vệ được mình, che mắt địch và đánh thắng địch". Bác còn dặn thêm là: "Các chú phải tôn trọng tín ngưỡng của nhân dân, nơi đóng quân của các chú hiện nay là một thắng cảnh, bây giờ chiến tranh ta phải dùng để phục vụ nhiệm vụ quân sự. Các chú phải biết giữ gìn, bảo quản để mai sau đất nước hòa bình làm nơi tham quan rất tốt...".

Từ đó đến nay đã hơn một phần tư thế kỷ trôi qua. Ghi sâu những lời Bác dạy, Đoàn thông tin Sóng Điện chúng tôi đã thường xuyên vươn lên trong mọi mặt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Trung đoàn đã được tặng thưởng  hai Huân chương Quân công, 12 tập thể và cá nhân được tặng thưởng Huân chương Chiến công. Ngày 30-10-1987, Trung đoàn đã được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

(Theo Nguyễn Thu kể, trích trong "Kể chuyện Bác Hồ")

161. Làm theo lời Bác

Đêm 11-8-1965, tại trận địa Xích Thổ, Tiểu đoàn 61 tên lửa chúng tôi liên tiếp phóng ba quả đạn diệt gọn một tốp A.4E. Chúng toàn toàn không ngờ tên lửa phòng không Bắc Việt lại xuất hiện ở vùng trời phía Nam Hà Nội nhanh chóng như thế.

Sau trận đó, chúng tôi nhận được một phần thưởng quý báu: Bác Hồ đến thăm. Đó là buổi chiều ngày 26-8-1965, khi ánh nắng đầu thu đã nhạt dần trên đỉnh núi Ba Vì. Không sao nói hết được niềm xúc động lớn lao của chúng tôi trong giây phút đó. Sau khi xem xét kỹ càng nơi ăn chốn ở của đơn vị, Bác dừng lại hồi lâu xem một khẩu đội thao tác lắp đạn lên bệ phóng. Thấy công việc của các chiến sĩ bệ phóng nặng nhọc, vất vả, Bác trao đổi với các đồng chí lãnh đạo quân chủng cần khắc phục khó khăn, chăm sóc bồi dưỡng cho anh em, để anh em đủ sức khỏe hoàn thành tốt nhiệm vụ.

Cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 61 chúng tôi ghi sâu mãi mãi lời dạy của Bác Hồ trong buổi đến thăm hôm đó:

- Hôm nay, Bác đến thăm các chú, thấy chú nào cũng khỏe mạnh, vui vẻ, Bác rất mừng. Bác vừa nghe báo cáo là bộ đội tên lửa đã ra quân đánh thắng trận đầu và đến nay đã bắn rơi được 12 máy bay địch, như thế là rất tốt. Nếu ta phấn đấu làm sao bắn ít đạn hơn mà lại rơi được nhiều máy bay địch hơn nữa thì càng ưu điểm... Bác khuyên chúng tôi không bao giờ được chủ quan mà phải thường xuyên rèn luyện để nâng cao trình độ chiến đấu về mọi mặt. Phải đoàn kết thương yêu nhau và có tinh thần hiệp đồng, lập công tập thể. Bác còn phân tích để khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ mà một vài người trong số chúng tôi hồi đó vẫn còn phân vân vì thấy Mỹ nó giàu mạnh, và có nhiều vũ khí hiện đại quá. Bác đã củng cố niềm tin cho chúng tôi. Bác dặn không được sợ khó, ngại khổ, không được sốt ruột, nôn nóng. Cần phải có quyết tâm cao. Có quyết tâm thì làm gì cũng được.

Cuối năm 1965 một niềm vui lớn nữa lại đến với Tiểu đoàn 61 chúng tôi là được lệnh lên đường vào chiến đấu trên quê hương Bác. Chúng tôi biết đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, vì khí tài tên lửa cồng kềnh, nặng nề, nhất là bệ phóng và các loại xe đặc chủng. Có loại như xe TZM chở đạn dài đến 15 m. Còn đài phát phóng của trung tâm điều khiển thì phải ba xe loại lớn mới chở hết dàn ăngten đồ sộ của nó. Khi triển khai hoặc thu hồi phải có riêng một xe cần cẩu loại lớn đi theo để làm nhiệm vụ lắp ráp. Thông thường những bệ phóng tên lửa cần được đặt vững chắc trong những hệ thống công sự kiên cố, vì thế mà lúc đầu bọn Mỹ cho rằng, SAM2 Bắc Việt với số lượng hạn chế chỉ có thể bố trí các trận địa xây bằng bê tông cốt sắt xung quanh Hà Nội. Nhưng dưới ánh sáng của đường lối chính trị, đường lối quân sự của Đảng, vũ khí tên lửa do Liên Xô viện trợ khi đến Việt Nam được sử dụng một cách sáng tạo theo cách đánh của nghệ thuật quân sự Việt Nam. Và các nhà chiến lược quân sự Mỹ đã luôn luôn bị bất ngờ. Ngày 24-7-1965, bộ đội tên lửa Việt Nam ra quân đánh thắng trận đầu ở một vùng núi ven sông Đà, cách Hà Nội hơn 60 km. Hơn hai tuần sau, ngày 11-8-1965, đã bất ngờ xuất hiện ở Ninh Bình cách Hà Nội 135 km, diệt gọn một tốp A.4E, và hai tuần sau đó, những bệ phóng lại đã có mặt ở Yên Bái, miền Tây Tổ quốc, bắn rơi hai chiếc F.105. Nhưng dù sao thì những bệ phóng đó vẫn nằm trong hậu phương lớn của miền Bắc, có nhiều lực lượng phòng không mạnh bảo vệ. Còn lần này, chúng tôi được lệnh vào tận tuyến lửa Khu IV, đường hành quân vô cùng khó khăn, nhiều cầu, nhiều phà, vừa hẹp, vừa yếu, kẻ địch lại ngày đêm đánh phá ác liệt..., liệu chúng tôi có thể hoàn thành được nhiệm vụ không? Nhớ lại lời dạy của Bác: "Có quyết tâm thì làm gì cũng được", chúng tôi phấn khởi lên đường, đầy lòng tin tưởng vào thắng lợi sẽ giành được. Đặc biệt lần này được về chiến đấu trên quê hương Bác, dù phải hy sinh gian khổ đến mấy, cũng là một hạnh phúc lớn đối với chúng tôi.

Đúng đêm 30 Tết Bính Ngọ năm 1966, toàn tiểu đoàn chúng tôi vượt cầu Hàm Rồng, rồi theo đường 15 tiến vào đất Nghệ An. Qua bao nhiêu vất vả gian nan, cuối cùng chiến thắng đã đến với chúng tôi. Đúng 8 giờ 45 phút ngày 07-3-1966, tại trận địa Quỳnh Thắng, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An, chỉ bằng một quả đạn, tiểu đoàn chúng tôi đã bắn rơi hai chiếc máy bay trinh sát hiện đại RF.101 của đế quốc Mỹ. Đây lại chính là chiếc máy bay thứ 900, 901 bị quân và dân ta bắn rơi trên miền Bắc nên niềm vui của chúng tôi như được nhân lên gấp đôi. Đặc biệt có ý nghĩa đây là những chiếc máy bay bị bộ đội tên lửa bắn rơi tại chỗ đầu tiên trên quê hương Bác. Thế là chúng tôi đã thực hiện được lời dạy của Bác: "Bắn ít đạn hơn mà tiêu diệt được nhiều máy bay địch hơn thì càng ưu điểm"... Đêm ấy bốn anh em trong kíp chiến đấu chúng tôi gồm sĩ quan điều khiển Trần Ngọc Lân, trắc thủ góc tà Nguyễn Thanh Tân, trắc thủ phương vị Trần Văn Hưng và tôi là trắc thủ cự ly, nằm bên nhau trong chiếc lều bạt dã chiến nhìn lên bầu trời quê hương Bác mà cảm thấy nhớ Bác vô cùng.

Chắc rằng ở Hà Nội, Bác cũng đã nhận được tin chiến thắng của chúng tôi và chắc là Bác vui lắm. Tình cảm của Bác, những lời dạy của Bác là nguồn sức mạnh giúp chúng tôi giành được chiến thắng vừa qua, và sẽ là nguồn sức mạnh động viên chúng tôi tiếp tục trên chặng đường chiến đấu sắp tới.

Hơn mười ngày sau, 7 giờ 30 phút ngày 18-3-1966, Tiểu đoàn 61 chúng tôi lại đánh thắng một trận xuất sắc, tại trận địa Giang Sơn, bắn rơi hai máy bay F.3, D.2 khi chúng đang lượn vòng trinh sát đập Đô Lương.

Sau những trận thắng giòn giã ở Nghệ An, chúng tôi được lệnh đưa những bệ phóng tiến sâu hơn vào địa bàn Hà Tĩnh. Đêm ngày 11-4-1966, toàn tiểu đoàn vượt phà Bến Thủy bằng hai phà song song. Ngày 12-4-1966, những bệ phóng phủ kín lá ngụy trang náu mình dưới chân núi Hồng Lĩnh để đêm ngày 13-4 triển khai vào trận địa Nga Lộc, huyện Can Lộc. Ngày hôm sau, 14-4-1966, vào hồi 14 giờ 30, những quả đạn tên lửa đầu tiên đã được phóng lên trên bầu trời Hà Tĩnh, thiêu cháy một chiếc RF.101, làm chấn động Nhà trắng và Lầu năm góc.

Tháng 3-1965, khi được tin tình báo cho biết SAM2 đã vào Bắc Việt, các chuyên gia của Lầu năm góc đã dự đoán với trình độ phát triển thấp về quân sự của Việt Nam thì giỏi lắm phải đến tháng 6-1966, tên lửa phòng không Việt Nam mới có thể xuất hiện được. Thế mà nay, chỉ mới tháng 4-1966, "những vùng khói da cam đáng sợ" đã xuất hiện trên bầu trời "vùng cán xoong", nơi mà lâu nay hầu như không quân Mỹ vẫn hoàn toàn làm chủ. Sau trận đánh ở Nga Lộc, chúng tôi đã phải trải qua những ngày cực kỳ gian khổ. Địch lùng sục suốt ngày đêm với quyết tâm "làm cỏ những bệ phóng SAM2". Những lời dạy của Bác Hồ về bí mật, bất ngờ càng trở nên vô cùng quý giá đối với chúng tôi lúc này. Hầu như cứ cách một ngày một đêm là chúng tôi phải di chuyển trận địa. Thức trắng đêm đối với chúng tôi đã trở thành chuyện bình thường. Cả một tuần liền không kịp tắm giặt, râu ria không kịp cạo, mặt mũi hốc hác, nhưng ánh mắt thì ai nấy vẫn đều linh lợi, tin tưởng. Bởi trong những lúc gian khổ, khó khăn nhất, chúng tôi như có Bác đang ở bên cạnh mình, và cảm thấy Bác đang theo dõi khuyến khích chúng tôi, như buổi chiều ngày 26-8-1965, Bác đứng hồi lâu theo dõi chúng tôi thao tác đưa những quả đạn lên bệ phóng...

Buổi chiều đáng ghi nhớ ấy, mãi mãi là kỷ niệm không thể nào quên trong cuộc đời người lính chúng tôi. Vượt qua muôn vàn gian khổ, khó khăn, đặc biệt là sự lùng sục gắt gao của máy bay địch, chúng tôi đã đưa những bệ phóng cơ động hầu khắp địa bàn Hà Tĩnh vào giáp địa phận Quảng Bình, bắn rơi thêm một số máy bay địch.

Ngày 27-4-1966, tại trận địa Hương Thu thuộc huyện Hương Khê, Tiểu đoàn 61 chúng tôi đã phóng những quả tên lửa đầu tiên về hướng Trường Sơn, tiêu diệt một máy bay F.4, ngay trên đỉnh đèo Mụ Giạ. Cho đến khi đế quốc Mỹ liều lĩnh leo những nấc thang cao nhất đánh vào Hà Nội ngày 29-6-1966, thì toàn Tiểu đoàn 61 chúng tôi được lệnh cấp tốc đưa những bệ phóng về bảo vệ Hà Nội, bảo vệ Bác Hồ. Bất chấp kẻ địch đánh phá, ngăn chặn, chúng tôi vẫn hành quân suốt ngày, suốt đêm không nghỉ. Tin kẻ thù đã đánh vào Thủ đô Hà Nội, trái tim của cả nước, nơi Bác Hồ đang sống và làm việc, làm lay động đến tận trái tim mỗi chúng tôi... Và chúng tôi nguyện với nhau quyết bắt kẻ thù phải đền tội ác.

Ngày 17-7-1966, tại trận địa Văn Điển án ngữ phía Nam Hà Nội, đúng 6 giờ sáng, toàn Tiểu đoàn chúng tôi tập hợp bên những bệ phóng, nghiêm trang nghe lời hịch lịch sử của Bác Hồ: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Trong giờ phút thiêng liêng ấy, mỗi chúng tôi thành kính lắng nghe từng lời của Bác, mà cảm thấy như đang nghe lời của non sông đất nước, của lịch sử vọng về.

Nhân dịp này, Bộ Tư lệnh Quân chủng phát động phong trào thi đua: "Làm theo lời Bác, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược". Và chỉ hai hôm sau ngày Bác ra lời kêu gọi, ngày 19-7-1966, Tiểu đoàn 61 chúng tôi bắn rơi một chiếc F.8U của giặc Mỹ ngay tại cửa ngõ phía Nam Hà Nội. Thi đua với Tiểu đoàn 61, hướng về lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước thiêng liêng của Bác Hồ, các đơn vị liên tiếp đánh thắng. Ngày 20-7-1966, Tiểu đoàn 72 thuộc Trung đoàn tên lửa 285, tại trận địa Vô Tranh ở Bắc Thái đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay điện tử hiện đại EB.66, diệt và bắt sống một lúc sáu tên giặc lái, hầu hết là chuyên viên điện tử cao cấp của không quân Mỹ. Tiếp đó, từ ngày 21 đến ngày 30-7-1966, các đơn vị tên lửa, không quân, cao xạ hiệp đồng chặt chẽ với các đơn vị rađa đã liên tiếp chiến thắng, bắn rơi thêm 14 máy bay địch, bắt sống hàng chục giặc lái tại Bắc Thái, Hòa Bình, Hà Nội, Hải Phòng.

Bước sang tháng Tám, phong trào thi đua hưởng ứng lời kêu gọi của Bác càng thêm sôi nổi. Đúng ngày 01-8-1966, các Tiểu đoàn 72, 62 bắn rơi hai chiếc ở Thái Nguyên, Tiểu đoàn 88 bắn rơi một chiếc ở Vĩnh Phú. Trên hướng Hải Phòng, mở đầu tháng Tám, các đơn vị thuộc Bộ Tư lệnh phòng không Hải Phòng cũng liên tiếp lập công. Đặc biệt xuất sắc là trận đánh mờ sáng ngày 02-8-1966, trong vòng 5 phút bắn rơi năm máy bay, trong đó riêng Trung đoàn 252 mang tên Sông Cấm bắn rơi bốn chiếc. Ngày 04 và 05-8-1966, Tiểu đoàn tên lửa 72 vừa được lệnh cấp tốc hành quân từ Bắc Thái về triển khai ở trận địa An Hồng bảo vệ Hải Phòng đã liên tiếp bắn rơi ba máy bay Mỹ, trong đó có chiếc thứ 50 của Hải Phòng. Nhân dịp này đồng bào và chiến sĩ Hải Phòng đã được Bác Hồ gửi thư khen.

Lời kêu gọi lịch sử: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Bác thực sự đã thổi bùng một sức mạnh mới trong các đơn vị thuộc bộ đội phòng không. Riêng Tiểu đoàn 61 chúng tôi, đơn vị được vinh dự Bác đến thăm, đã có những chuyển biến mạnh mẽ chưa từng thấy. Tinh thần hăng say luyện tập sôi nổi suốt ngày đêm để nâng cao trình độ chiến đấu, ứng phó với thủ đoạn mới của không quân địch, trong đó có thủ đoạn bay thấp hết sức nham hiểm. Kẻ thù biết rõ, loại tên lửa SAM2 chỉ có thuận lợi khi bắn mục tiêu ở độ cao từ 5 km trở lên, còn khi mục tiêu bay thấp thì các trắc thủ rất khó bám sát, và nếu bay thấp dưới 1 km thì càng khó, rất dễ xảy ra nguy cơ đạn điều khiển bị rơi xuống đất gây nguy hiểm cho các vùng dân cư. Luyện tập đánh máy bay bay thấp là một quá trình hết sức gian khổ đối với các trắc thủ tên lửa chúng tôi, đặc biệt là đối với trắc thủ góc tà.

Ngày 04-11-1966, chúng tôi đã đánh một trận trong tình huống địch bay thấp 700 m và đã giành thắng lợi. Chiếc RF.101 cắm đầu rơi xuống một thửa ruộng đang gặt dở trên cánh đồng xã Cổ Nhất thuộc ngoại thành Hà Nội. Chiến công này trước hết phải kể đến trắc thủ góc tà Nguyễn Thanh Tân (lúc này tôi đã trở thành sĩ quan điều khiển).

Với những thành tích đạt được, trong Đại hội thi đua quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ đầu năm 1967, Tiểu đoàn 61 chúng tôi đã được tuyên dương danh hiệu Đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đây là Tiểu đoàn tên lửa đầu tiên của Binh chủng tên lửa được tặng danh hiệu cao quý này.

Trong buổi đón nhận danh hiệu Anh hùng, tất cả chúng tôi, trong niềm vui chung nhưng ai nấy đều nhớ đến Bác Hồ kính yêu. Chính Bác là nguồn sức mạnh, là nguồn cổ vũ lớn lao, động viên, khích lệ chúng tôi trên mỗi chặng đường chiến đấu.

(Theo Đại tá Nguyễn Xuân Đài, trích trong "Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")

Tâm Trang (tổng hợp)


 161. Trận đánh mừng thọ Bác

Cay cú vì bị đòn đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ điên cuồng leo những nấc thang mới nghiêm trọng đánh phá miền Bắc. Trên cơ sở nắm vững quy luật chiến tranh leo thang của địch, chúng ta đã kịp thời phán đoán địch sẽ tập trung lực lượng máy bay mở những đợt đánh phá ác liệt vào Thủ đô Hà Nội, thành phố cảng Hải Phòng và một số trọng điểm giao thông miền Bắc.

Bộ đội phòng không Hà Nội được lệnh khẩn trương chuẩn bị mọi mặt, thường xuyên cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, đánh bại mọi bước leo thang liều lĩnh của kẻ thù. Chấp hành chỉ thị của Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân đã tăng cường thêm cho mặt trận Hà Nội một số đơn vị pháo phòng không của Quân khu III, của Đoàn B.51 và B.67, một số đơn vị tên lửa và lực lượng không quân.

Ngày 24-4-1967, toàn bộ lực lượng đã triển khai xong đội hình. Đợt hoạt động chiến đấu mang nhiều yếu tố của một chiến dịch phòng không, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân, trong đó bộ đội phòng không Hà Nội là đơn vị nòng cốt, có nhiệm vụ bảo vệ các mục tiêu trọng điểm của Hà Nội. Trong đợt hoạt động tác chiến đó, trận đánh ngày 19-5 có thể được coi là trận đánh lớn đã giành thắng lợi giòn giã, vừa mang ý nghĩa quân sự, vừa mang ý nghĩa chính trị sâu sắc, là món quà chiến thắng đẹp đẽ của cán bộ, chiến sĩ phòng không - không quân kính dâng lên mừng sinh nhật lần thứ 77 của Bác Hồ kính yêu.

*

* *

Bước sang tháng Năm, toàn quân chủng đã dấy lên phong trào thi đua sôi nổi lập thành tích xuất sắc mừng thọ Bác Hồ 77 tuổi. Theo thông báo của trên, ngày 19-5 có khả năng địch tổ chức đánh lớn vào Hà Nội. Vì vậy đêm 18-5, khắp các trận địa khẩn trương chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu.

9 giờ 30, bộ đội rađa với tinh thần cảnh giác cao, đã có thông báo những tín hiệu đầu tiên về sự hoạt động của địch.

10 giờ, 16 máy bay thuộc lực lượng hải quân gồm A.4, A.6, F.4, bay theo hướng chợ Bến lên đánh phá khu vực Văn Điển, Thường Tín. Lực lượng tên lửa được lệnh nổ súng trước, ngay từ phút đầu đã bắn rơi tại chỗ bốn máy bay địch gồm hai chiếc A.4, một chiếc A.6 và một chiếc F.8, bắt sống hai giặc lái, pháo phòng không bảo vệ Tiểu đoàn 64 tên lửa bắn rơi một chiếc A.4. Pháo phòng không bảo vệ Tiểu đoàn 65 tên lửa cũng bắn rơi một chiếc A.4, bắt sống một giặc lái. Tính chung lực lượng của bộ đội tên lửa, chỉ trong thời gian ngắn, do có phương án tác chiến tốt, được chuẩn bị chu đáo, bộ đội có quyết tâm cao, hướng về ngày sinh nhật của Bác Hồ, giành thế chủ động ngay từ đầu, đã bắn rơi sáu máy bay, trong đó có năm chiếc tại chỗ, bắt sống ba giặc lái, tiêu diệt hơn một phần ba tổng số máy bay vào đánh phá, xấp xỉ tỷ lệ 35%. Đây là trận có hiệu suất hiếm có, một trận đánh tiêu diệt đúng theo lời dạy của Bác Hồ hôm Người về thăm bộ đội phòng không ngày 19-7-1965. Lực lượng pháo phòng không bảo vệ yếu địa tham gia chiến đấu tuy chỉ bắn rơi một chiếc A.3J, nhưng là một chiến công có giá trị lịch sử, đó là lần đầu tiên, một phản lực Mỹ bị bắn rơi tại chỗ trong nội thành Hà Nội ngay trên đường phố Lê Trực. Như vậy, riêng trận chiến đấu buổi sáng, trên khu vực Nam Hà Nội, bảy máy bay giặc Mỹ đã đền tội.

Buổi chiều, 14 giờ 25 phút, máy bay địch lại tiếp tục vào đánh phá, tất cả gồm 20 chiếc của hải quân. Đường bay gần giống buổi sáng, nhưng vòng lên cao và tập trung vào đánh phá Nhà máy điện Yên Phụ. Bộ đội tên lửa phòng không sát cánh cùng với bộ đội không quân và pháo phòng không chiến đấu dũng cảm, mưu trí… đã bắn rơi ba máy bay Mỹ trên bầu trời Hà Nội. Riêng không quân bắn rơi hai chiếc F.4B. Sau trận đánh, nhận được tin chiến thắng, Bác đã khen ngợi quân và dân Hà Nội đánh giỏi, thắng lớn và nhắc nhở chớ chủ quan khinh địch, phải nhanh chóng tổ chức rút kinh nghiệm để đánh tốt hơn. Trong trận này, các đơn vị pháo phòng không Hà Nội được bố trí theo cách đánh mới, đội hình ôm sát mục tiêu nên đã phát huy hỏa lực mạnh mẽ, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ khu vực trung tâm Hà Nội.

Trận đánh ngày 19-5-1967 là một trong những trận đánh hiệp đồng binh chủng lớn của các lực lượng phòng không - không quân đạt hiệu suất cao, trong một ngày tiêu diệt 10 máy bay địch, bắt sống ba giặc lái, có nhiều chiếc rơi tại chỗ, có chiếc rơi ngay trong khu vực nội thành, cách nơi ở của Bác Hồ chưa đầy 1 km. Địch có đánh vào một số trận địa pháo và tên lửa phòng không nhưng không gây thiệt hại gì đáng kể. Mục tiêu trọng điểm được bảo vệ tốt. Các binh chủng trong quân chủng đều lập được chiến công. Mặc dù còn bộc lộ một số thiếu sót nhưng trận thắng ngày 19-5-1967 xứng đáng được ghi nhận là một trận thắng lịch sử, ghi nhận bước trưởng thành về trình độ tác chiến hiệp đồng quy mô lớn của lực lượng phòng không - không quân, là bước phát triển mới về hình thức tác chiến phòng không, đợt hoạt động tác chiến phòng không tập trung. Qua đó rút ra được nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị lý luận và thực tiễn về nghệ thuật tác chiến phòng không trong chiến tranh nhân dân đất đối không, chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ trên chiến trường miền Bắc.

(Theo Vũ Thế, trích trong "Bác Hồ với bộ đội Phòng không - Không quân")

162. Nguồn sức mạnh

Trải qua chặng đường chiến đấu và xây dựng, bộ đội phòng không đã từng bước trưởng thành, lập nên nhiều chiến công rực rỡ, được Đảng và Nhà nước tặng thưởng danh hiệu cao quý. Riêng đối với bộ đội phòng không chúng tôi, công ơn của Bác Hồ thật vô cùng to lớn. Mỗi bước đi của chúng tôi, mỗi thành công của chúng tôi đều in đậm nét sự quan tâm sâu sắc, sự chăm sóc đặc biệt của Bác Hồ.

Ngay từ khi toàn quân ta chỉ mới có một đại đội pháo phòng không 37 mm, Đại đội 612, vào một ngày đầu Xuân năm 1952, Bác đã đến thăm đơn vị.

Ngày 01-4-1953, do yêu cầu phát triển của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đang bước vào giai đoạn quyết định, trung đoàn pháo cao xạ đầu tiên mang phiên hiệu 367 được thành lập. Khi đơn vị đang còn làm nhiệm vụ huấn luyện chuyển binh chủng, Bác đã gửi lời thăm hỏi ân cần và căn dặn cán bộ, chiến sĩ: "Học thật giỏi, mau chóng nắm vững vũ khí, khí tài mới để sớm ra quân chiến đấu". Nghiêm chỉnh thực hiện chỉ thị của Bác, Đoàn 367 đã hoàn thành tốt nhiệm vụ học tập, kịp thời có mặt trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ và đã lập công xuất sắc, cùng các đơn vị bạn bắn rơi 62 máy bay, bắt sống giặc lái. Trong chiến dịch này, bộ đội phòng không đã vinh dự được nhận lá cờ "Quyết chiến quyết thắng", phần thưởng luân lưu của Bác Hồ. Kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bộ đội phòng không có bước phát triển mới. Đảng và Bác quyết định thành lập Đại đoàn phòng không đầu tiên của quân đội ta, với cỡ pháo lớn hơn, máy móc hiện đại hơn. Lại một cuộc vật lộn gian khổ với loại vũ khí mới, trong khi trình độ văn hóa của các chiến sĩ hồi ấy phần đông chỉ có lớp 2, lớp 3. Thấu hiểu nỗi khó khăn và lo lắng của bộ đội phòng không, Bác đã gửi lời thăm hỏi, động viên cán bộ và chiến sĩ toàn Đại đoàn cố gắng chịu khó học tập, nhanh chóng làm chủ được vũ khí mới để về bảo vệ Hà Nội. Hơn 30 năm đã trôi qua, mà câu nói của Bác hồi ấy: "Hà Nội chưa có pháo cao xạ như nhà chưa có nóc" vẫn như nhắc nhở trách nhiệm đối với mỗi chiến sĩ phòng không chúng tôi.

Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, bộ đội phòng không nhận nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Tổ quốc trong công cuộc lao động hòa bình. Trong lúc các chiến sĩ phòng không ngày đêm trực ban chiến đấu và phải hoàn thành một khối lượng lớn chương trình huấn luyện để nắm vững và sử dụng tốt các loại vũ khí mới, Bác Hồ lại trao cho bộ đội phòng không lá cờ "Học tập khá nhất" để làm giải thưởng luân lưu cho các đơn vị. Phấn khởi trước sự quan tâm của Bác, bộ đội phòng không đã dấy lên phong trào thi đua học tập, rèn luyện sôi nổi giành cờ thưởng luân lưu của Bác, phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ. Trải qua thời kỳ phấn đấu gian khổ, bộ đội phòng không đã có thành tích trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, do đó năm 1959, Bác đã ký lệnh thưởng cho bộ đội phòng không Huân chương Chiến công hạng Hai.

Trong những năm hòa bình đó, Bác Hồ đã dành cho bộ đội phòng không chúng tôi sự quan tâm săn sóc đặc biệt.

Sau hòa bình, Đại đội 1, Trung đoàn 230 đóng tại trận địa Quảng Bá cạnh Hồ Tây được vinh dự đón Bác đến thăm. Hôm đó là buổi sáng mùa hè ngày 25-7-1961, các chiến sĩ đang bảo quản pháo ở trận địa thì được tin Bác đến. Sau khi xem nơi ăn chốn ở của đơn vị, Bác trở về giữa sân nói chuyện với bộ đội, giọng Bác thân mật như người cha dạy bảo đàn con: "Các chú phải ra sức học tập kỹ thuật, chiến thuật hơn nữa thì mới bảo đảm làm tròn nhiệm vụ. Phải tránh chủ quan thỏa mãn. Trình độ văn hóa các chú còn thấp, nên phải cố gắng mà học để làm cơ sở tốt cho huấn luyện quân sự". Đảng ủy bộ đội phòng không đã lấy lời dạy bảo quý báu đó của Bác làm phương hướng cho kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng bộ đội phòng không cách mạng, chính quy và hiện đại.

Từ đó trở đi, một phong trào học văn hóa sôi nổi được dấy lên khắp các đơn vị. Ngày thứ bảy học văn hóa trở thành nền nếp thường xuyên của bộ đội phòng không. Đội ngũ giáo viên văn hóa chuyên nghiệp, nửa chuyên nghiệp được bố trí xuống tận các đại đội. Nhờ đó, trình độ văn hóa của cán bộ, chiến sĩ được nâng lên mau chóng, việc huấn luyện sử dụng binh khí, kỹ thuật mới có nhiều thuận lợi và đạt được nhiều thành tích. Đó chính là cơ sở vững chắc để đến năm 1964, 1965, đáp ứng một phần quan trọng yêu cầu phát triển lực lượng to lớn của bộ đội phòng không, kịp thời đương đầu có hiệu quả với cuộc chiến tranh phá hoại chủ yếu bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta.

Chưa đầy một năm sau, đúng ngày mồng 1 Tết Nhâm Dần (ngày 05-02-1962) Bác lại đến thăm bộ đội phòng không. Đại đội 109, Trung đoàn 220 đóng quân tại trận địa Vĩnh Tuy, được vinh dự đón Bác. Sáng hôm ấy trời nắng đẹp, một chiếc xe du lịch đỗ ngay trước cổng doanh trại. Bác từ trong xe bước ra giữa tiếng reo vui của các chiến sĩ: "Bác đến! Bác đến!". Mọi người chạy ùa cả lại vây quanh Bác. Bác hiền từ đứng giữa đàn con cháu, Bác thân mật thăm hỏi cán bộ, chiến sĩ về tình hình sức khỏe, tình hình học tập, nhất là học văn hóa. Bác cũng hỏi cả việc ăn Tết năm nay có được đầy đủ không? Đồng chí Chính trị viên Đại đội báo cáo với Bác. Nghe xong, Bác vui vẻ khen và nói:

- Năm qua, các chú học tập, công tác tốt, năm nay các chú phải cố gắng hơn nữa để đạt thành tích cao hơn. Bác còn căn dặn đơn vị phải tiếp tục học tập, rèn luyện để nâng cao hơn nữa trình độ quân sự, chính trị, văn hóa, phải thường xuyên có ý thức phòng gian, bảo mật.

Trước khi Bác ra về, đồng chí Chính trị viên đã thay mặt cán bộ, chiến sĩ chúc Tết Bác và hứa quyết tâm làm theo những lời Bác dạy. Một năm qua đi, một mùa Xuân nữa lại đến, mùa Xuân năm 1963, Bác Hồ kính yêu lại dành cho bộ đội phòng không chúng tôi vinh dự lớn được đón Bác đến thăm. Đại đội 129, Trung đoàn 260 đóng quân tại trận địa Tiên Hội, Đông Anh, được thay mặt quân chủng đón Bác.

Hôm ấy là ngày 03-02-1963, ngày kỷ niệm thành lập Đảng, cán bộ, chiến sĩ đang lao động xã hội chủ nghĩa xây dựng vườn hoa thì Bác đến. Bác hồng hào, nụ cười rạng rỡ.

Bác âu yếm hỏi:

- Mỗi chú được bao nhiêu bánh chưng ăn Tết?

Hầu như tất cả mọi người cùng một lúc trả lời:

- Thưa Bác, được hai chiếc ạ!

Đưa tay chỉ vào những cây phi lao mới trồng quanh vườn hoa, Bác hỏi:

- Cây này có quả ăn không?

- Thưa Bác, không ạ!

Bác lại hỏi:

- Thế trồng nhãn có quả ăn không?

- Thưa Bác, có ạ!

Bác tươi cười nói:

- Vậy trồng nhãn tốt hơn. Còn phi lao nên trồng ngoài hàng rào.

Sau đó, Bác đi xem nơi ăn ở của đơn vị. Bác khen nhà bếp sạch, nhưng phê bình nhà ngủ chưa gọn. Bác nói:

- Hôm nay chắc là chủ nhật nên nội vụ của các chú chưa được tốt.

Trước khi lên xe ra về, Bác chỉ vào hai hàng cây xà cừ mới trồng hai bên đường, Bác bảo:

- Cứ tính từ cổng đơn vị, mỗi chiều người xuôi 500 m, đơn vị các chú phải chăm sóc cho thật tốt.

Sau lần được Bác đến thăm đó, Đại đội 129 càng chú trọng xây dựng kỷ luật, trật tự nội vụ, nền nếp tác phong, không những trong những ngày thường mà cả trong những ngày nghỉ. Cũng ngay trong mùa Xuân đó, cán bộ, chiến sĩ Đại đội 129 đã kịp thời trồng nhãn thay cho các cây phi lao trong vườn hoa. Anh em còn lấy gạch xếp thành chữ "Vườn hoa Bác đến thăm", để kỷ niệm một ngày đáng ghi nhớ.

Chúng tôi luôn nhớ lời phê bình của Bác: "Hôm nay chắc là chủ nhật nên nội vụ của các chú chưa được tốt". Bác đã giáo dục chúng tôi phải duy trì tốt trật tự, kỷ luật cả ngày thường cũng như ngày nghỉ. Bộ đội phòng không phải thường xuyên sẵn sàng chiến đấu cao, nên yêu cầu xây dựng trật tự, kỷ luật, tác phong càng phải hết sức chặt chẽ. Hôm đó, Bác còn chỉ bảo chúng tôi cả việc trồng và chăm bón cây. Từ đó, một phong trào trồng cây ăn quả từ Đại đội 129 lan nhanh khắp toàn quân chủng. Và đợt thi đua "Làm theo lời Bác" do quân chủng phát động, mà trọng tâm là "Tăng cường kỷ luật tác phong, duy trì tốt nền nếp trật tự, nội vụ", đã tạo nên một chuyển biến thật sự từ cơ quan đến đơn vị. Không phải ngẫu nhiên mà ba năm liền từ năm 1961 đến năm 1963, năm nào Bác cũng dành cho bộ đội phòng không chúng tôi được vinh dự đón Bác về thăm. Bên kia vĩ tuyến 17, bọn Diệm được Mỹ hà hơi tiếp sức, đang ngày đêm hò hét Bắc tiến. Những chuyến bay biệt kích sâu vào nội địa miền Bắc càng ngày càng trắng trợn và có tính chất thường xuyên. Bác đã nhìn thấy trước âm mưu của kẻ thù, vì thế Bác luôn nhắc chúng tôi phải tích cực học tập để không ngừng nâng cao trình độ kỹ thuật chiến thuật, phải thường xuyên rèn luyện kỷ luật, tác phong để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Những hành động khiêu khích đầu tiên của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta đã xảy ra vào ngày 11-8-1963. Chúng cho hai chiếc máy bay phản lực xâm phạm vùng trời Hà Nội. Làm theo lời Bác dạy "phải thường xuyên đề cao cảnh giác", bộ đội phòng không bảo vệ Thủ đô đã nổ súng kịp thời. Đại đội 129 đã bắn những phát súng đầu tiên. Hôm ấy là ngày chủ nhật, hai chiếc RF.101 bay rất cao, nhân dân Hà Nội không nghe tiếng động cơ máy bay mà chỉ nghe tiếng nổ rền vang của pháo phòng không 100 mm, loại pháo cỡ lớn nhất vừa mới được trang bị chưa được bao lâu.

Lại một năm trôi qua. Một mùa Xuân nữa lại đến, mùa Xuân năm 1964. Đúng sáng mồng 1 Tết Giáp Thìn, Bác Hồ lại đến thăm và chúc Tết bộ đội phòng không, ngay tại trận địa của Đại đội 130, Trung đoàn 260, bên cạnh dòng sông Đuống. Vẫn với bước đi nhanh nhẹn, Bác vào nhà ngủ Trung đội 3, khen nội vụ gọn gàng, sạch sẽ, Bác xuống nhà câu lạc bộ, xem những tờ báo tường đón Xuân do anh em viết, rồi dừng lại trước lá cờ thưởng luân lưu "Đơn vị khá nhất", tỏ ý hài lòng. Khi đi ngang qua một gian buồng xép, thấy nhiều quang sọt, Bác dừng lại hỏi đơn vị đang làm gì mà nhiều quang sọt thế. Đồng chí Phó Chính trị viên Đại đội thưa với Bác là anh em đang làm đường cơ động, củng cố trận địa, đào thêm ao, lấy chỗ tắm giặt và thả cá để cải thiện. Nghe báo cáo, Bác gật đầu khen như thế là tốt. Bác tiếp tục đi xuống bếp, xem các món ăn, khen bộ đội ăn khá và nhà bếp sạch. Bác ân cần hỏi chuyện các đồng chí nuôi quân:

- Các chú có luôn giữ được sạch sẽ, gọn gàng như thế này không?

Đồng chí Tiểu đội trưởng nuôi quân xúc động trả lời:

- Thưa Bác, đại đội chúng cháu được Trung đoàn khen là đơn vị nuôi quân, phòng bệnh tốt ạ! Sau khi đi xem một vòng khắp doanh trại, Bác trở về trước sân, nói chuyện và chúc Tết bộ đội:

- Hôm nay Bác và các đồng chí Trung ương đến thăm các chú. Bác thấy chú nào cũng mạnh khỏe, vui vẻ, Bác mừng. Đơn vị các chú được thưởng cờ, doanh trại thì sạch sẽ, gọn gàng, như vậy là tốt. Năm mới, Bác chúc các chú mạnh khỏe, thắng lợi và nhờ các chú chuyển lời chúc Tết của Bác và các đồng chí Trung ương tới gia đình các chú.

Nói đến đây Bác dừng lại một lát, đưa cặp mắt hiền từ nhìn một lượt khắp hàng quân rồi nói:

- Các chú thấy đồng bào miền Nam chiến đấu có giỏi không? Có dũng cảm không? Tất cả đơn vị đồng thanh đáp:

- Có ạ!

- Vậy ta phải học tập quân và dân miền Nam anh hùng. Đế quốc Mỹ còn nhiều âm mưu thâm độc. Các chú phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu, phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch, nếu chúng dám liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc nước ta. Muốn làm được như vậy, năm nay các chú rèn luyện kỹ thuật cho giỏi. Cán bộ, chiến sĩ phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu nhau như anh em một nhà.

Toàn đơn vị đứng im phăng phắc. Đây là lần đầu tiên sau 10 năm hòa bình, Bác trực tiếp ra mệnh lệnh cụ thể cho bộ đội phòng không chúng tôi: "Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch nếu chúng dám liều lĩnh xâm phạm vùng trời miền Bắc". Cũng trong dịp này, Bác lại nhắc nhở chúng tôi vấn đề mà Bác đã nhắc nhở suốt mấy năm nay là "phải rèn luyện kỹ thuật cho giỏi". Sau này, khi bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với kẻ thù có tiềm lực lớn về  nhiều mặt, chúng tôi càng thấu hiểu những lời dạy của Bác thật sâu sắc và trở thành vấn đề xuyên suốt trong quá trình xây dựng và chiến đấu của bộ đội phòng không: "Phải luôn luôn cảnh giác và lúc nào cũng sẵn sàng chiến đấu", "Phải kiên quyết bắn rơi máy bay địch", "Phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ mọi mặt", "Phải rèn luyện kỹ thuật cho giỏi", để tạo nên sức mạnh chiến thắng.

Trước khi ra về, Bác còn dặn:

- Các chú lập công, Tết sang năm Bác lại xuống thăm.

Những ngày đầu Xuân năm 1964, nghiêm chỉnh chấp hành mệnh lệnh của Bác, khắp các trận địa phòng không bừng bừng khí thế quyết tâm đánh thắng trận đầu. Những đợt huấn luyện đột kích, những cuộc diễn tập theo phương án tác chiến được liên tiếp tổ chức. Công sự được tu sửa thêm. Chế độ trực ban sẵn sàng chiến đấu được duy trì nghiêm ngặt. Nghị quyết Đảng ủy các cấp, phương án tác chiến của các đơn vị đều quán triệt sâu sắc những lời dạy của Bác. Đợt sinh hoạt chính trị: "Làm theo lời Bác, đánh thắng trận đầu", do nghị quyết Đảng ủy quân chủng quý I năm 1964 đề ra, được Cục Chính trị tập trung chỉ đạo sát sao và được Tổng cục Chính trị theo dõi chặt chẽ, đã thực sự làm chuyển biến bộ mặt của quân chủng, thổi bùng lên một khí thế mới, một sức mạnh mới.

Bộ đội phòng không mãi mãi coi Tết Giáp Thìn, năm 1964, như một cái mốc quan trọng trên con đường chiến đấu vẻ vang của mình. Chỉ sáu tháng sau ngày Bác đến thăm, bộ đội phòng không phối hợp chặt chẽ với bộ đội hải quân và các lực lượng vũ trang nhân dân khác đã đánh thắng trận đầu oanh liệt ngày 05-8-1964. Trong buổi lễ tuyên dương công trạng của các đơn vị lập công, Bác nói:

- Các chú đã thu được thắng lợi vẻ vang, nhưng chớ vì thắng lợi mà tự mãn, chủ quan khinh địch. Chúng ta phải biết rằng, đế quốc Mỹ và tay sai, chết thì chết, nết không chừa, chúng còn nhiều âm mưu hung ác. Các chú phải tiếp tục đẩy mạnh mọi mặt công tác và luôn luôn nâng cao cảnh giác sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời với việc đưa quân ồ ạt vào miền Nam, bè lũ Giônxơn cho không quân và hải quân tăng cường đánh phá miền Bắc nước ta. Tổ quốc ta đứng trước một thử thách to lớn chưa từng có. Lịch sử đặt ra cho quân và dân ta, trong đó có bộ đội phòng không, trách nhiệm hết sức nặng nề là phải cố gắng vượt bậc, vượt qua mọi hy sinh gian khổ, thực hiện bằng được hai nhiệm vụ chiến lược: Bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, hoàn thành sự nghiệp thiêng liêng giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.

Trong nhiệm vụ bảo vệ miền Bắc, bộ đội phòng không cùng với bộ đội không quân được giao trọng trách là lực lượng nòng cốt bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, ngày 19-7-1965, Bác Hồ đã đến thăm và dạy bảo bộ đội phòng không chúng tôi. Đi với Bác hôm đó có đồng chí Thượng tướng Văn Tiến Dũng, Tổng tham mưu trưởng và đồng chí Trung tướng Song Hào, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Dạo đó, chúng tôi đang chuẩn bị cho bộ đội tên lửa ram đánh thắng trận đầu. Đồng chí Thiếu tá Nguyễn Đăng Tùng, Trung đoàn trưởng Trung đoàn 241, được vinh dự thay mặt đơn vị báo cáo tình hình với Bác. Nghe giọng nói của đồng chí Tùng, Bác thân mật nói:

- Chú quê ở Quảng Nam hay Quảng Ngãi?

Đồng chí Tùng vừa sung sướng, vừa ngạc nhiên trả lời:

- Dạ thưa Bác, cháu quê ở Quảng Nam ạ!

Bác nhanh nhẹn bước vào công sự của Đại đội 7, Đoàn Tam Đảo, âu yếm nhìn các pháo thủ đang ngồi bên mâm pháo, giơ tay đếm từng người. Được tận mắt nhìn thấy Bác hồng hào, khỏe mạnh, giản dị trong bộ quần áo nâu quen thuộc, các chiến sĩ vô cùng xúc động. Bác chăm chú nghe đồng chí khẩu đội trưởng Lương Phú Thoại báo cáo với Bác tình hình khẩu đội. Bác hỏi trong khẩu đội có bao nhiêu cựu binh, bao nhiêu tân binh. Nghe báo cáo xong, Bác cầm chiếc mũ sắt của đồng chí Thoại xem rồi đội lên đầu, vui vẻ nói: "Chiếc mũ này đội để chiến đấu rất tốt". Sau khi trao lại chiếc mũ sắt cho đồng chí Thoại, Bác thân mật hỏi các chiến sĩ:

- Ở đây chú nào bắn rơi máy bay Mỹ?

Các chiến sĩ trả lời:

- Thưa Bác! Chúng cháu mỗi người một nhiệm vụ, cùng tham gia bắn ạ!

Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.

Rời khẩu đội, Bác nhanh nhẹn bước đến chỗ bộ đội đang tập trung chờ nghe Bác nói chuyện. Đầu tiên, Bác hỏi:

- Giặc Mỹ đang leo thang chiến tranh ra miền Bắc, còn ở miền Nam chúng đang tăng thêm quân, thêm súng. Các chú có sợ không?

Bộ đội đồng thanh trả lời: "Không sợ ạ!".

- Đúng! Nó đưa thêm chừng nào, ta diệt thêm chừng đó. Các chú đã cùng với quân và dân ta bắn rơi gần 400 máy bay địch, lập công như vậy là tốt. Các chú có vất vả, gian khổ nhưng so với quân và dân miền Nam thì chưa thấm vào đâu. Phải noi gương quân và dân miền Nam đánh giỏi, thắng lớn hơn nữa. Các chú đã nghe phổ biến nghị quyết của Trung ương, của Quân ủy Trung ương về tình hình và nhiệm vụ mới của quân và dân ta trong giai đoạn hiện nay, Bác tóm tắt mấy điểm để các chú dễ nhớ.

Một là, phải nêu cao quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Có quyết tâm thì làm gì cũng được. Nói đến đây Bác dừng lại hỏi bộ đội: Các chú có quyết tâm không? Bộ đội lại đồng thanh đáp: Có ạ! Bác dạy tiếp: Phải có quyết tâm đánh mà đã đánh phải có quyết tâm thắng. Phải chuẩn bị tinh thần đánh liên tục, đánh cho đến khi thắng lợi hoàn toàn.

Hai là, phải làm sao đánh tiêu diệt chúng. Vừa qua súng của ta không phải ít nhưng ta chưa đánh tiêu diệt được. Vấn đề là ở chỗ tinh thần con người phải truyền qua nòng súng, tức là phải làm sao có kỹ thuật giỏi. Muốn bắn trúng, bắn rơi tại chỗ máy bay địch ngay từ loạt đạn đầu, phải tập luyện thật công phu. Bắn trúng từ loạt đạn đầu tiên, bắn rơi tại chỗ, sẽ tiết kiệm được đạn. Đạn đắt tiền lắm. Các chú bắn còn tốn đạn, tất nhiên là không chú nào muốn như thế, nhưng chính vì kỹ thuật chưa cao. Ta thường nói một viên đạn một quân thù. Ở đây với cỡ pháo này, Bác cho các chú "hai mươi viên một quân thù".

Ba là, phải thường xuyên rút kinh nghiệm. Giặc Mỹ rất xảo quyệt, chúng luôn thay đổi thủ đoạn. Đánh xong một trận chúng cũng rút kinh nghiệm. Vì vậy, các chú cũng phải thường xuyên rút kinh nghiệm để kịp thời làm thất bại những thủ đoạn của chúng. Đừng nặng về liên hoan, nhẹ về rút kinh nghiệm.

Bốn là, bộ đội phòng không có nhiều binh chủng hợp thành, lúc đánh phải hiệp đồng cho tốt, ai đánh tầng thấp, ai đánh tầng giữa, ai đánh trên cao, phải phân công cho cụ thể, phối hợp rất chặt chẽ. Nói đến đấy Bác dừng lại hỏi:

- Bác không phải nhà quân sự, nói như vậy có đúng không?

Bộ đội đồng thanh đáp:

- Thưa Bác đúng ạ! Bác lại tiếp tục nói: Các chú phải có tinh thần tập thể. Ai cũng muốn lập công, khi máy bay địch đến ai cũng bắn. Khi máy bay rơi, ai cũng bảo mình bắn, lúc bắn không rơi lại đổ lỗi cho nhau, như vậy là không tốt. Công là công chung. Tranh công đổ lỗi là biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân.

Thứ năm, các chú phải hết sức chú ý vấn đề dân chủ kỷ luật, kỷ luật trong dân chủ, dân chủ phải có kỷ luật. Bác thấy có nơi còn có hiện tượng cán bộ cáu kỉnh với chiến sĩ, như vậy không tốt. Có gì cứ bình tĩnh bảo nhau, bàn bạc với nhau. Càng cáu càng khó nghe. Muốn dân chủ tốt, kỷ luật cao, cán bộ phải gương mẫu tự phê bình và phê bình.

Ví dụ, Bác và các chú khai hội với nhau, Bác tự phê bình trước thì các chú mới dám phê bình. Các chú có khuyết điểm, Bác phê bình lại. Mục đích phê bình và tự phê bình là để học cái hay, tránh cái dở, chứ không phải để nói xấu nhau.

Cuối cùng, Bác dặn các chú, phải tin tưởng vững chắc là ta nhất định thắng, Mỹ nhất định thua. Lúc này mà còn phân vân, tầu địch to, tầu ta nhỏ, tầu bay địch nhiều, súng ta ít, liệu có đánh được không? Đó là biểu hiện của quyết tâm chưa cao. Tuy không dám tự nhận là sợ địch, nhưng chính là sợ địch. Phải khẳng định rằng: “Dù đế quốc Mỹ có lắm súng, nhiều tiền. Dù chúng có B.57, B.52 hay "bê" gì đi chăng nữa ta cũng đánh. Từng ấy máy bay, từng ấy quân Mỹ chứ nhiều hơn nữa ta cũng đánh, mà đã đánh là nhất định thắng... Ta phải có lòng tin sắt đá ở Đảng, Đảng đã nói: "Nhất định đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" là nhất định thắng... Đánh nhau có hy sinh, có gian khổ, nhưng bền gan, vững chí thì cuối cùng ta nhất định thắng, địch nhất định thua”.

Các chú đã thông tình hình nhiệm vụ, cần phải tuyên truyền cho mọi người rõ, làm sao cho cả nước một lòng chống Mỹ, cứu nước và tin là nhất định thắng lợi. Bác vừa dứt lời cả khối người như bật dậy hô vang:

- Kiên quyết làm theo lời dạy của Bác!

- Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược!

- Hồ Chủ tịch muôn năm!

Đối với bộ đội phòng không chúng tôi, lời dạy của Bác trong lần đến thăm ngày 19-7-1965 này là một sự kiện lịch sử quý báu đã củng cố lòng tin và tiếp thêm sức mạnh cho cán bộ chiến sĩ trong toàn quân chủng nỗ lực vươn lên hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đánh thắng những bước leo thang chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc nước ta. Hơn thế nữa, lời dạy của Bác hôm đó thực sự đã đặt nền móng cho tư tưởng chỉ đạo tác chiến phòng không, nghệ thuật tác chiến phòng không của chúng ta.

(Trung tướng Trần Nhẫn, trích trong "Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")

Tâm Trang (tổng hợp)


 163. Nguồn sức mạnh (tiếp theo)

Ngay sau khi Bác đến thăm, theo chỉ thị của Đảng ủy quân chủng, Cục Chính trị quân chủng đã hướng dẫn các đơn vị phát động toàn thể cán bộ, chiến sĩ học tập và làm theo lời dạy của Bác, thi đua lập công, quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Bản chỉ thị nêu rõ những yêu cầu của đợt phát động:

1. Nâng cao quyết tâm chiến đấu; kiên định vững vàng phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, dũng cảm chiến đấu, đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược.

2. Quán triệt tư tưởng chỉ đạo tác chiến "Đánh thắng trận đầu, đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng", phát huy quân sự dân chủ, tăng cường rèn luyện năng lực chỉ huy, trình độ kỹ thuật để bắn trúng ngay từ loạt đạn đầu, bắn rơi tại chỗ nhiều máy bay địch, tiết kiệm đạn, trước mắt nhanh chóng đưa số máy bay Mỹ bị bắn rơi trên miền Bắc lên 400 chiếc.

3. Phát huy dân chủ, đề cao kỷ luật, tăng cường đoàn kết, hiệp đồng chiến đấu, lập công tập thể. Nhiều đơn vị đã thảo luận quán triệt lời Bác dạy, đề ra chỉ tiêu phấn đấu, sôi nổi phát động thi đua học và làm theo lời dạy của Bác. Đặc biệt đối với bộ đội tên lửa, lúc này đang khẩn trương chuẩn bị ra quân đánh thắng trận đầu, tin Bác đến thăm và những lời dạy của Bác đã trở thành niềm cổ vũ hết sức lớn lao. Nghị quyết của Đảng ủy Trung đoàn nhấn mạnh quyết tâm đánh thắng trận đầu, bằng quả đạn đầu, bắn rơi tại chỗ. Lúc này trên những quả đồi ở Trung Hà thuộc huyện Ba Vì, mặt đất đang rung chuyển bởi hàng trăm xe pháo, bệ phóng. Một đội quân lớn đang được tập trung ở đây với đầy đủ các loại hỏa lực, tầng cao, tầng trung, tầng thấp: Hai tiểu đoàn tên lửa 63, 64, ba Trung đoàn pháo cao xạ, gần mười Đại đội súng máy cao xạ 14,5 mm, hàng nghìn tay súng của dân quân tự vệ...

Có thể nói đây là lần đầu tiên, bộ đội phòng không chúng tôi tổ chức một trận đánh hiệp đồng binh chủng quy mô lớn như vậy, gồm cả ba binh chủng tên lửa, cao xạ, rađa, có cả lực lượng phòng không địa phương tham gia. Lời dạy của Bác như còn văng vẳng bên tai, chúng tôi thật sự cảm thấy như Bác đang căn dặn riêng mỗi người chúng tôi trước khi bước vào trận đánh này.

Chúng tôi đặc biệt quan tâm chỉ đạo sâu vào hai vấn đề: Đánh thắng trận đầu và lập công tập thể. Đối với một đơn vị mới ra quân, trận đầu bao giờ cũng hết sức quan trọng. Hơn nữa đây là trận đầu của binh chủng tên lửa mới được thành lập. Trong trận ra quân đầu tiên của bộ đội tên lửa đó, thực hiện nghiêm chỉnh lời dạy của Bác, phối hợp chặt chẽ với các lực lượng, với nhân dân địa phương Hà Tây, chúng tôi đã lập được chiến công vang dội, bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay Mỹ thứ 400 trên miền Bắc. Cả hai Tiểu đoàn tên lửa 63, 64 thuộc Đoàn Sông Đà được Bác ký lệnh tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba và đồng chí Lã Đình Chi, sĩ quan điều khiển đầu tiên của Tiểu đoàn 63 được Bác tặng thưởng một Huy hiệu của Người.

Vinh dự cho tôi hồi đó được là người chỉ huy bộ đội tên lửa trong trận ra quân đầu tiên này. Cho đến hôm nay tôi vẫn còn giữ lại hầu như nguyên vẹn những ấn tượng sâu sắc và đẹp đẽ về trận đánh lịch sử mà hồi đó, chúng tôi gọi là trận đánh thực hiện lời Bác dạy. Ở cương vị chỉ huy, tôi không thể nào quên sự chờ đợi căng thẳng trước trận đánh của buổi chiều ngày 24-7-1965, vì đã bước sang ngày thứ tư chúng tôi chờ địch rồi. Không khí trên những quả đồi thuộc vùng Trung Hà, Ba Vì như bị dồn nén lại, nóng bức, ngột ngạt. Tin khí tượng cho biết sắp có một cơn giông to. Liệu địch có đến không? Cả một đội quân lớn được tập trung ở đây lẽ nào để rồi lặng lẽ rút đi không được nổ súng. Buổi trưa hôm đó, chúng tôi nhận được tin: Hồi 10 giờ sáng, các đơn vị bảo vệ vùng Lâm Thao đã bắn rơi chiếc máy bay Mỹ thứ 398 và 399. Đơn vị nào sẽ bắn rơi chiếc máy bay thứ 400? Sự chờ đợi trong Sở chỉ huy càng thêm căng thẳng.

15 giờ. Tôi nhận được báo cáo: Một tốp F.4, độ cao 7.000 m, đang bay vào khu vực trận địa. Đánh hay không đánh? Theo phương án tác chiến, để bảo đảm đánh thắng trận đầu, trận này ta chỉ đánh hai đối tượng. Tốt nhất là U2, loại máy bay trinh sát tầng cao có người lái, vì loại này đường bay ổn định, dễ làm mồi cho tên lửa. Thứ đến là loại cường kích đang tiếp cận mục tiêu với đường bay ổn định. Còn đây là loại F.4, tiêm kích, rất cơ động, khó đánh trúng. Mà trận này thì nhất định phải đánh thắng. Nghị quyết của Đảng ủy đơn vị đã nêu rõ: "Chỉ được đánh thắng, không được để lỡ thời cơ, không được để địch chủ động đánh trước". Nhưng nếu lần này không đánh thì không biết đến bao giờ tạo ra được một thời cơ mới nữa. Chờ đợi đã ba ngày rồi, trời lại sắp đổ mưa. Bây giờ vấn đề là quyết tâm. Lướt nhanh trong óc, tôi soát lại toàn bộ công tác chuẩn bị. Vũ khí, khí tài rất tốt. Các đồng chí tiểu đoàn kỹ thuật đã thức nhiều đêm để chuẩn bị chu đáo cho từng quả đạn. Quyết tâm của bộ đội rất cao sau khi được học tập lời dạy của Bác. Còn về địch, chúng đang bay vào thế kia, chứng tỏ chúng ta vẫn đang giành được yếu tố bí mật, bất ngờ. Như vậy quyết tâm đánh là hoàn toàn có cơ sở. Bác dạy: "Có quyết tâm cao thì làm gì cũng được”. Và trận đánh đã thắng lợi giòn giã. Sau này, khi nhớ lại những giây phút đó, chúng tôi vẫn nghĩ chính bài học quyết tâm mà Bác dạy đã cho chúng tôi sức mạnh để làm nên thắng lợi to lớn đó. Ngay sau trận thắng, một sự kiện khác cũng làm chúng tôi không thể nào quên. Trận đánh vừa kết thúc, thì trời đổ mưa như trút. Cả trận địa bỗng chốc biến thành một bãi lầy.

Theo phương án tác chiến, đánh xong là phải rút ngay. Những bệ phóng, những xe đặc chủng nặng nề, cồng kềnh đều bị lún ngập trong bùn, hàng tiếng đồng hồ không nhích lên được. Cán bộ, chiến sĩ đã thấm mệt sau mấy ngày căng thẳng chờ địch. Một lần nữa bài học quyết tâm của Bác lại được nêu lên. Tư lệnh Phùng Thế Tài, Chính ủy Đặng Tính cũng xắn quần quá gối lặn lội với anh em trong mưa gió và bùn lầy. Một xe xích không kéo nổi một bệ, thì đấu hai xe xích, vẫn không kéo nổi thì đấu ba xe.

Một cuộc vật lộn giữa con người và thiên nhiên diễn ra quyết liệt. Và cuối cùng, cán bộ, chiến sĩ Đoàn Tên lửa Sông Đà đã thắng một trận thứ hai. Trước khi trời sáng, toàn bộ khí tài đã được rút ra khỏi trận địa, chuẩn bị cho những trận đánh mới.

Ngay sau trận thắng đầu tiên ngày 24-7-1965, Bác đã dành thời gian trực tiếp nghe đồng chí Tư lệnh Quân chủng báo cáo. Nghe xong, Bác tỏ ý hài lòng. Về nhiệm vụ chiến đấu tới, Bác chỉ thị một số điểm và nhấn mạnh hai điều là phải bảo đảm bí mật, bất ngờ và đoàn kết lập công tập thể.

Trong thư khen nhân dịp quân và dân miền Bắc bắn rơi 400 máy bay giặc Mỹ, Bác động viên mọi người tiếp tục nêu cao: "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, lập nhiều thành tích to lớn hơn nữa". Thực hiện phương án tác chiến được Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh thông qua từ trước, những bộ khí tài tên lửa giả làm bằng cót được triển khai ở trận địa cũ để nhử địch đến. Một lực lượng phòng không lớn, gồm hơn 120 khẩu pháo các cỡ, có lực lượng của dân quân tự vệ ba huyện Bất Bạt, Quảng Oai, Tùng Thiện, phối hợp bố trí suốt từ Trung Hà qua Phú Mỹ đến Ba Trại chờ đón đánh địch. Khẩu hiệu: "Thi đua làm theo lời Bác", "Bắn rơi địch tại chỗ ngay từ loạt đạn đầu, bắt sống giặc lái", "Đã có quyết tâm, phải đánh giỏi, đánh tiêu diệt" xuất hiện ở khắp nơi, trên vành mũ, trên hầm pháo. Ở khẩu đội 6, Đại đội 1 Đoàn Tam Đảo, các chiến sĩ còn nắn nót kẻ hai câu thơ lên lá chắn pháo:

Lời Bác ghi nhớ trong lòng

Chúng cháu quyết lập công lẫy lừng.

Và trận đánh lớn tiếp theo đã diễn ra đúng như phương án. Ngày 27-7-1965, hơn 40 lần chiếc phản lực Mỹ bay rất thấp, điên cuồng lao tới đánh phá trận địa "Ra Cót" - tức những trận địa giả, để trả thù cho chiếc F4 bị bắn rơi ngày 24-7-1965. Chúng bị đánh trả một đòn như trời giáng. Năm chiếc bị rơi, thêm một số giặc lái bị bắt. Bị một đòn choáng váng, kẻ địch càng thêm lúng túng. Lầu Năm góc đã vạch một vòng tròn bán kính 60 km, lấy Hà Nội làm tâm, cấm các máy bay Mỹ không được bén mảng tới.

Phát huy thắng lợi, các tiểu đoàn tên lửa được lệnh lên đường tìm địch mà đánh, tiếp tục gây cho chúng những bất ngờ mới, đẩy địch vào thế bị động, liên tiếp giành thắng lợi vẻ vang.

Đêm 11-8-1965, trên vùng trời Ninh Bình, bằng ba quả đạn, Tiểu đoàn 61 diệt gọn một tốp A.4E, có một chiếc rơi tại chỗ, giặc lái nhảy dù xuống rừng Cúc Phương. Ngày 24-8-1965, từ những trận địa ở nông trường Đồng Giao, chỉ trong vòng 30 phút, Tiểu đoàn 63 tiêu diệt ba máy bay địch, bắt sống hai tên giặc lái. Ngày 26-8-1965, trên vùng trời Yên Bái, Tiểu đoàn 64 lại lập công xuất sắc, tiêu diệt hai chiếc F.105 của địch.

Sau những chiến thắng liên tiếp trên bầu trời Hà Tây, Ninh Bình, Yên Bái, bộ đội tên lửa phòng không lần đầu tiên được Bác đến thăm. Tiểu đoàn 61 vinh dự được thay mặt toàn đơn vị đón Bác. Trong lúc máy bay Mỹ đang leo thang đánh phá, đưa bom đạn đến sát Thủ đô Hà Nội, mà Bác vẫn xuống tận trận địa làm cho các chiến sĩ vô cùng xúc động. Đồng chí Tư lệnh Phùng Thế Tài dẫn Bác đi thăm trận địa và báo cáo với Bác quá trình xây dựng, chiến đấu của bộ đội tên lửa. Bác đi thăm một lượt các khu vực trận địa. Thấy những chiếc lán bạt của bộ đội dưới các rặng cây vừa kín đáo, vừa mát mẻ, đẹp mắt, Bác tỏ ý hài lòng. Sau đó, Bác đến nơi bộ đội đã tập hợp chờ nghe Bác nói chuyện. Tiểu đoàn trưởng Hồ Sĩ Hưu, người vừa chỉ huy trận đánh xuất sắc ở Ninh Bình, lúng túng vì quá xúc động chưa kịp báo cáo thì Bác đã hô:

- Chào! Rồi Bác cười thân mật:

- Các chú không biết chào đấy nhé. Giờ Bác hô tiếp để các chú làm theo: Ngồi xuống!

Cả Tiểu đoàn phấn khởi tuân theo lệnh Bác. Thế là buổi nói chuyện của Bác được bắt đầu trong không khí chan hòa, không còn sự ngăn cách giữa lãnh đạo và quần chúng. Mở đầu buổi nói chuyện, Bác khen ngợi thành tích mà bộ đội tên lửa vừa qua đã đạt được:

- Hôm nay, Bác đến thăm các chú, thấy chú nào cũng vui vẻ, khỏe mạnh, Bác rất mừng. Bác vừa nghe chú Tài báo cáo các chú đã hạ được 12 máy bay Mỹ. Như thế là tốt. Nếu ta phấn đấu làm sao bắn ít đạn hơn mà lại rơi được nhiều máy bay hơn nữa thì càng ưu điểm. Tiếp đó, Bác nói:

- Hiện nay, chúng ta đang kháng chiến lần thứ hai. Chúng ta đang đánh giặc Mỹ, tên trùm đế quốc hung hãn, xảo quyệt, nhưng chúng ta nhất định sẽ chiến thắng. Chúng ta phải tin tưởng sâu sắc ở Đảng, không được ngại gian khổ, sốt ruột. Chúng ta được sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Chúng ta lại được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tất cả các nước. Đế quốc Mỹ đánh ta, nhưng nhân dân Mỹ lại ủng hộ ta. Về phía ta, chúng ta quyết tâm, chúng ta có Đảng sáng suốt lãnh đạo và lực lượng to lớn của nhân dân ta. Hồi Cách mạng Tháng Tám, chúng ta chỉ có 5.000 đảng viên thôi, nhưng Đảng nói: Cách mạng nhất định thắng lợi. Có đúng không các chú?.

Bộ đội đồng thanh đáp:

- Đúng ạ!

Trong kháng chiến trước đây, lực lượng thực dân Pháp rất mạnh. Nhưng lúc đó Đảng bảo: Kháng chiến nhất định thắng lợi. Có đúng là thắng không? Bộ đội lại đồng thanh đáp: Đúng ạ! Đúng ạ! Lần này Đảng cũng bảo: Ta quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược thì nhất định ta cũng đánh thắng. Chúng ta phải tin tưởng sâu sắc ở Đảng, đồng thời mỗi chúng ta cũng không được sợ khổ, sợ khó. Các chú cần đề cao ý thức lập công tập thể, thắng lợi không được tranh công, khó khăn không được đổ lỗi. Thắng lợi là thắng lợi của các lực lượng vũ trang và của toàn dân. Khi có khuyết điểm, tốt nhất là mình nên nhận trước để sửa chữa. Mặt khác, Bác dặn các chú phải hết sức quý trọng sức người, sức của của nhân dân. Nếu bất đắc dĩ phải chặt cây, chặt tre của đồng bào thì phải bàn bạc cùng chi bộ địa phương, trả tiền cho sòng phẳng. Một điều quan trọng nữa là phải giữ gìn bí mật quân sự. Các chú phải dặn dò nhân dân giữ gìn bí mật cho mình. Bác nhắc lại chúng ta phải có quyết tâm cao, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ. Trong chiến tranh, nhất định có khó khăn, gian khổ, nhưng so với khó khăn, gian khổ của đồng bào miền Nam đã và đang trải qua thì còn chưa thấm vào đâu. Lúc chiến đấu phải dũng cảm, thắng không kiêu, bại không nản. Chúng ta phải có quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, như vậy mới xứng đáng với lòng tin tưởng của Đảng, của nhân dân và của các nước anh em. Tóm lại phải đoàn kết, quyết tâm. Có đoàn kết mới có thể khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi được. Cuối cùng, Bác chúc các chú mạnh khỏe, hăng hái cố gắng học tập và thu được nhiều thắng lợi.

Hôm ấy, không phải chỉ có riêng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 61 được đón Bác, mà các tiểu đoàn bạn đều được cử đại biểu thay mặt anh em đến để đón Bác và nghe Bác dạy bảo. Những cán bộ, chiến sĩ đầu tiên của binh chủng kỹ thuật hiện đại, dưới sự hướng dẫn của đồng chí Phạm Hồng Liên, Chủ nhiệm Chính trị Trung đoàn, ngồi sát bên nhau, sung sướng, tự hào, chăm chú lắng nghe như nuốt lấy từng lời dạy quý báu của Bác.

Cho đến hôm nay, gần 30 năm đã trôi qua, lòng tôi vẫn bồi hồi xúc động khi nhớ lại những ngày tháng đáng ghi nhớ đó.

Đối với chúng tôi, mỗi lần kỷ niệm ngày đánh thắng trận đầu của bộ đội tên lửa, đồng thời cũng là kỷ niệm ngày Bác Hồ đến thăm binh chủng, trong câu chuyện thân mật của các buổi họp mặt từ cơ quan đến đơn vị, gồm đủ các thế hệ, từ đồng chí Trung đoàn trưởng chỉ huy trận đánh đầu tiên, đến đồng chí trắc thủ trẻ tuổi, mới nhập ngũ, chúng tôi ai nấy đều bùi ngùi tưởng nhớ tới Bác vô cùng kính yêu.

Một năm sau ngày Bác đến thăm, Tiểu đoàn 61, Đoàn Tên lửa Sông Đà, đã trở thành đơn vị anh hùng với những trận đánh xuất sắc như trận ngày 7-3-1966, bằng một quả đạn diệt hai máy bay địch trên vùng trời quê hương Bác; trận ngày 19-7-1966, đáp lời kêu gọi thiêng liêng "Không có gì quý hơn độc lập, tự do" của Bác ngày 17-7-1966, bắn rơi tại chỗ một chiếc phản lực F.8 ngay trên bầu trời Hà Nội. Cũng chỉ hơn một năm sau ngày Bác đến thăm, đồng chí Nguyễn Tuyên, người đầu tiên của bộ đội tên lửa được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tiếp đó là các đồng chí Nguyễn Xuân Đài, sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 61, Nguyễn Văn Thực, sĩ quan điều khiển Tiểu đoàn 63, Phạm Trương Uy, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 64, đều thuộc Đoàn Tên lửa Sông Đà, lần lượt được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Tính đến nay, toàn binh chủng tên lửa có đến năm Trung đoàn, tám Tiểu đoàn, 12 cán bộ, chiến sĩ được tặng danh hiệu cao quý đó. Và binh chủng tên lửa, ngay sau trận "Điện Biên Phủ trên không" lịch sử cũng đã được Đảng và Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân.

Tết năm 1966 (Tết Bính Ngọ), chúng tôi lại được vinh dự đón Bác tại trận địa trực ban chiến đấu. Buổi sáng mồng 1 Tết năm ấy mưa phùn nặng hạt nhưng khí trời ấm áp. Trung đội súng máy tự hành đóng quân trên bờ đê Mai Lĩnh đang làm nhiệm vụ trực ban chiến đấu thì được Bác đến thăm.

Bác hỏi bộ đội tình hình trực ban chiến đấu, mỗi ngày trực mấy tiếng? Mỗi đêm trực mấy tiếng? Ăn có no không? Áo mặc có đủ ấm không? Có vải bạt che mưa không?

Mưa vẫn rơi, phủ ướt cả hai vai áo, đọng thành từng giọt trên vành mũ của Bác. Cứ đứng giữa trời mưa Xuân như thế, Bác nói chuyện với đơn vị. Bác hỏi tuổi quân của vài chiến sĩ, hỏi trình độ văn hóa học đến lớp mấy. Bác khuyên dù bận trực ban chiến đấu cũng phải có gắng mà học tập để tiến bộ mãi. Bác bảo: "Muốn đánh thắng không quân giặc Mỹ thì các chú phải học cho thật giỏi về mọi  mặt”.

Bác rút trong túi ra một tập thiếp chúc Tết tặng mỗi chiến sĩ một tờ, rồi Bác lại lấy kẹo chia cho từng người. Các chiến sĩ sung sướng, cảm động. Bác tiếp tục nói chuyện với các chiến sĩ thân mật như người ông căn dặn đàn cháu yêu quý của mình. Cuối cùng, Bác giới thiệu đồng chí Tố Hữu cùng đi với Bác, đọc thơ chúc Tết bộ đội: Giặc Mỹ cứ đem mày đến đây/ Chúng ta pháo đã sẵn trong tay/ Lúa ta vẫn tốt, cây ra lộc/ Xuân vẫn về cho ong bướm bay.

Những lời căn dặn đầu Xuân năm đó của Bác nhắc nhở chúng tôi một năm chiến đấu mới quyết liệt sẽ diễn ra trên toàn chiến trường và ngay cả trên miền Bắc trước những bước leo thang cực kỳ nghiêm trọng của đế quốc Mỹ. Chúng đã ném bom vào kho xăng dầu Thượng Lý ở Hải Phòng, kho xăng dầu Đức Giang ở Hà Nội, bắn tên lửa vào vài địa điểm trong nội thành. Được Bác dạy bảo và rèn luyện, bộ đội phòng không chúng tôi không hề nao núng trước thử thách mới hết sức thâm độc và hung bạo của kẻ thù. Tuy nhiên, do còn có thiếu sót về công tác nắm địch, do trình độ kỹ thuật, chiến thuật còn chưa đáp ứng được với tình hình mới, nên hiệu suất chiến đấu của bộ đội phòng không lúc bấy giờ chưa được cao. Chúng tôi nghiêm khắc tự kiểm điểm. Đồng chí Phùng Thế Tài lên báo cáo với Bác nhưng Bác rất độ lượng. Bác bảo kẻ địch đã thay đổi thủ đoạn, do vậy ta phải thường xuyên rút kinh nghiệm để đánh tốt hơn.

Trong dịp này, bộ đội phòng không chúng tôi có hai đơn vị: Đại đội 6 và Đại đội 12 thuộc đoàn thông tin Sóng Điện đóng quân ở chùa Trầm được Bác đến thăm vào ngày 13-7-1966. Thật là quý báu biết bao, cứ mỗi lần đến thăm bộ đội phòng không, Bác không những truyền cho chúng tôi quyết tâm, lòng tin sắt đá vào thắng lợi, bồi dưỡng tư tưởng, đường lối quân sự của Đảng mà còn rèn luyện chúng tôi về đạo đức, tác phong, đến cả từng lời ăn tiếng nói. Ví như Bác bảo không nên nói phi cơ mà nói máy bay, không nên gọi phi công của ta mà nên nói người lái của ta, không nên gọi phi công Mỹ mà gọi là giặc lái Mỹ. Hôm đến thăm đoàn Xung Kích, Bác khen màu sơn trên xe AM vừa đẹp vừa ngụy trang tốt, chứ đừng nên chặt cây mà ngụy trang. Về chuyện chặt cây còn một chi tiết rất đáng nhớ. Do yêu cầu chiến đấu, chúng tôi phải bố trí một số pháo ngay trên đường Thanh Niên. Để đảm bảo hướng bắn, các cán bộ tham mưu đề nghị chặt một số cây hai bên đường. Biết tin này, Bác đã có ý kiến với quân chủng, cố tìm mọi cách để khắc phục chứ không nên chặt cây làm mất vẻ đẹp của con đường.

Trong hai năm 1966-1967, cuộc chiến tranh phá hoại diễn ra ác liệt, Bác đã hai lần đến thăm bộ đội phòng không tại trận địa trực ban chiến đấu. Đại đội 6, Đoàn Tam Đảo được vinh dự đón Bác ngay tại mâm pháo, được Bác tận tay chia thuốc lá cho từng người. Đó là buổi sáng 25-9-1966. Cùng đi với Bác có đồng chí Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng và đồng chí Chính ủy quân chủng Đặng Tính. Tại hầm pháo khẩu đội 5, Bác hỏi han tỉ mỉ các chiến sĩ: "Ăn có đủ no không? Hằng ngày bữa cơm có thịt không?”. Tiếp đó Bác hỏi tình hình sinh hoạt, trực ban chiến đấu: "Mỗi ngày các chú trực ban mấy giờ? Ngủ mấy giờ?".

Chúng tôi thấy trên nét mặt của Bác thoáng vẻ băn khoăn khi nghe các chiến sĩ báo cáo phải trực ban chiến đấu mỗi ngày bốn phiên, mỗi phiên hai tiếng giữa những ngày mùa hè nóng nực. Bác quay sang trao đổi với đồng chí Văn Tiến Dũng và đồng chí Đặng Tính điều gì đó, rồi tiếp tục căn dặn bộ đội:

- Các chú phải thường xuyên rèn luyện nhiều hơn nữa để đánh thắng trong mọi điều kiện. Khi nào các chú bắn rơi máy bay Mỹ báo cáo ngay với Bác.

Bác Hồ thường xuyên nhắc nhở cán bộ các cấp trong quân chủng phải thực sự quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần của chiến sĩ. Bác còn lấy tiền nhuận bút của mình mua đường, sữa gửi cho bộ đội phòng không - không quân, những chiến sĩ đang suốt ngày đêm canh giữ bầu trời Tổ quốc. Tấm lòng thương yêu bao la của Bác đã thực sự tăng thêm sức mạnh cho bộ đội phòng không cùng các lực lượng vũ trang và nhân dân đánh thắng những bước leo thang chiến tranh của địch.

Năm 1967, kể từ tháng Tư, giặc Mỹ liên tiếp mở nhiều đợt đánh phá bằng không quân với quy mô lớn vào trung tâm Hà Nội. Đối với bộ đội phòng không chúng tôi, đặc biệt là đối với cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn 361, Hà Nội không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, đầu mối giao thông... mà trong từng trái tim của mỗi người còn là một điều thiêng liêng hơn, to lớn hơn. Đó chính là vì ở đây có Trung ương Đảng, có Bác Hồ kính yêu đang ngày đêm sống và làm việc. Không thể nào quên những trận đánh hào hùng trên bầu trời Hà Nội đúng vào ngày kỷ niệm sinh nhật Bác, ngày 19-5-1967. Ngay tối hôm trước ngày kỷ niệm, cán bộ chiến sĩ sư đoàn hầu như thao thức không ngủ, rộn ràng chuẩn bị cho trận đánh lập công mừng thọ Bác. Chúng tôi vẫn biết rằng, tình cảm của Bác đối với lực lượng vũ trang nhân dân thật bao la. Bởi vì Bác là người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang. Người chăm chút cho tất cả mọi đứa con, nhưng riêng đối với bộ đội phòng không chúng tôi cảm thấy như được nhận sự quan tâm đặc biệt của Bác. Có đến tất cả 12 lần, bộ đội phòng không chúng tôi được Bác đến thăm và dạy bảo. Bác đến tận trận địa cao xạ, trận địa tên lửa, Sở chỉ huy... vào những ngày hè nóng lửa và cả những lúc gió rét, mưa dầm. Kể từ những ngày mới thành lập, trải qua 10 năm xây dựng hòa bình, và đặc biệt là trong những năm chiến đấu quyết liệt chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ đối với miền Bắc, lúc nào chúng tôi cũng cảm thấy như có Bác thường xuyên ở bên cạnh. Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng", cờ thưởng luân lưu của Bác ở mặt trận Điện Biên Phủ, lá cờ "Học tập khá nhất", phần thưởng của Bác đối với bộ đội phòng không trong những năm xây dựng hòa bình, và lá cờ "Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược" trong những năm chống chiến tranh phá hoại, chính là những cái mốc quan trọng mà Bác đề ra cho chúng tôi phấn đấu vươn lên giành thắng lợi. Những ngày chúng tôi phải trực tiếp đương đầu quyết liệt nhất với không quân đế quốc Mỹ, Bác đã cho phép chúng tôi được đặt một đường dây điện thoại trực tiếp từ Sở chỉ huy đến thẳng chỗ Bác, để thường xuyên báo cáo với Bác về tình hình chiến đấu một cách nhanh nhất. Các đồng chí Phùng Thế Tài, Đặng Tính thường được Bác gọi lên. Bác hỏi cặn kẽ về âm mưu, thủ đoạn của địch, về tình hình bộ đội, những khó khăn cần giải quyết để đánh thắng. Năm 1967, khi bộ đội tên lửa có khó khăn trước những thủ đoạn đánh phá của địch, Bác đã dành thời gian trực tiếp nghe quân chủng báo cáo và cho ý kiến giải quyết kịp thời.

Nghe tin bộ đội tên lửa lần đầu tiên bắn rơi chiếc máy bay không người lái tầng cao, Bác đã dành thời gian xuống tận nơi xem xét. Thường sau những trận đánh lớn, mặc dù đã được Cục Tác chiến báo cáo kết quả, Bác vẫn cho gọi chỉ huy quân chủng lên để trực tiếp nghe tình hình cụ thể. Sự quan tâm chăm sóc, giáo dục của Bác với bộ đội phòng không thật vô bờ bến. Đó là "Nguồn sức mạnh” như lời đồng chí Đặng Tính, Chính ủy Quân chủng phòng không - không quân đã khẳng định, để chúng tôi lập nên mọi chiến công.

Vinh dự càng lớn thì trách nhiệm càng cao. Bộ đội phòng không chúng tôi luôn luôn tâm niệm một điều: Phải luôn xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc của Bác. Như đã thành thường lệ, mỗi lần chúng tôi đánh thắng, Bác lại gửi thư khen. Thư nào Bác cũng căn dặn chúng tôi không được chủ quan khinh địch mà phải luôn luôn nêu cao tinh thần cảnh giác. Bác luôn nhắc nhở quân chủng phải báo cáo những gương chiến đấu dũng cảm và công tác tốt để Bác gửi tặng huy hiệu của Người, còn đối với tập thể có công thì Bác gửi tặng lẵng hoa. Có lần quân chủng chưa kịp báo cáo, nhưng xem tờ Tin phòng không - không quân thấy gương chiến đấu dũng cảm của Chính trị viên Mai Văn Hợi, Bác đã lấy bút đánh dấu và ghi vào bên cạnh: "Tặng một Huy hiệu”. Tính đến cuối năm 1969 đã có 12 đồng chí được tặng huy hiệu Bác Hồ. Có những đồng chí thuộc đơn vị chiến đấu như Lã Đình Chi, Mai Văn Hợi, có đồng chí thuộc thành phần phục vụ như Cao Tiến Tân, chiến sĩ nuôi quân Đại đội 5, đoàn Tam Đảo, đồng chí Trần Hiền Thúy, chiến sĩ nữ báo vụ kiêm đánh dấu đường bay, đoàn Ba Bể... Không thể nào quên không khí tưng bừng, náo nức của những buổi lễ đón nhận lẵng hoa và huy hiệu của Bác trong những năm chiến đấu ác liệt đó. Đối với bộ đội phòng không chúng tôi, đó là những ngày hội thực sự, như được tiếp thêm nguồn sức mạnh đánh thắng kẻ thù. Bác thường đến thăm chúng tôi phần nhiều vào dịp đầu Xuân. Trong mười hai lần Bác đến thăm bộ đội phòng không, có đến sáu lần vào dịp Tết. Vào mùa Xuân cuối cùng của cuộc đời mình, Tết Kỷ Dậu năm 1969, Bác đã dành cho bộ đội phòng không một buổi đến thăm lịch sử.

Đến thăm quân chủng lần này, một quân chủng mà Bác đã dành cho sự quan tâm, chăm sóc đặc biệt, Bác đã cho phép triệu tập đầy đủ các thành phần gồm đại biểu tất cả các đơn vị, các anh hùng, chiến sĩ thi đua, chiến sĩ quyết thắng. Hội trường quân chủng sáng mồng 1 Tết năm ấy thật đầm ấm, rộn ràng. Cùng đến chúc Tết với Bác có đồng chí Nguyễn Lương Bằng và đồng chí Văn Tiến Dũng. Bên cạnh niềm vui ngày Xuân đón Bác hôm đó còn có sự lo lắng của tất cả mọi người. Nhìn thấy Bác gầy hơn, yếu hơn mọi năm, bước chân không còn được nhanh nhẹn như trước, chúng tôi ai nấy lòng đều se lại. Nhưng chính Bác thì vẫn rất vui tươi, tâm hồn, tình cảm của Bác vẫn tràn đầy sức Xuân.

Bác ân cần thăm hỏi và chúc Tết mọi người. Bác nhắc nhở thành tích bắn rơi máy bay Mỹ là công lao của cả tập thể. Bác khen các đồng chí anh hùng, chiến sĩ thi đua lập công hạ được nhiều máy bay giặc nhưng Bác không quên các chiến sĩ nuôi quân, các bác sĩ, y tá, các chiến sĩ thông tin. Đồng chí Vũ Thị Huệ, chiến sĩ thông tin, các đồng chí Tạ Thị Nhung, Dương Công Lược, chiến sĩ nuôi quân, một bác sĩ và một y tá nữa được Bác gọi lên bắt tay. Khi Trung đoàn tên lửa 238 biếu Bác con lợn tăng gia được trong hoàn cảnh chiến đấu khẩn trương, Bác rất cảm động. Bác khen đơn vị tăng gia giỏi và nói vui: "Các chú biếu Bác, Bác rất cảm ơn, nhưng nếu Bác nhận thì người ta sẽ bảo Bác tham. Bây giờ Bác có ý kiến thế này: Đơn vị đem bán con lợn cho đơn vị ngoài này, rồi dùng tiền đó làm vốn tiếp tục nuôi con khác". Mọi người vui vẻ hưởng ứng gợi ý của Bác... Đặc biệt lời dạy của Bác trong buổi sáng mùa Xuân Kỷ Dậu đó có ý nghĩa sâu sắc với bộ đội phòng không - không quân: "Phải luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, không tin được Mỹ đâu, chúng nó xảo quyệt lắm, chúng là bọn đế quốc xâm lược. Phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu để khi nó giở quẻ thì mình đập lại được ngay".

Lời dạy quý báu đó của Bác đã giúp chúng tôi đánh trả kẻ địch có hiệu quả, khi đế quốc Mỹ phản bội lời cam kết, mở lại cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc ngày 06-4-1972. Hồi đó, Sư đoàn 363B phòng không đã nổ những phát súng đầu tiên vào bọn không quân Mỹ, đánh thắng một trận xuất sắc trên vùng trời Quảng Bình, bắn rơi năm máy bay của chúng, có ba chiếc rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái. Và khi bè lũ Níchxơn, Kítxinhgiơ tung màn khói "Hòa bình trong tầm tay", rồi lật lọng giở quẻ bất ngờ dùng B.52 mở cuộc tập kích chiến lược vào Hà Nội, Hải Phòng, bộ đội phòng không đã chủ động đánh trả kịp thời.

Ngay đêm đầu tiên, đêm 18-12-1972, chúng đã bị ta giáng một đòn phủ đầu đích đáng, ba chiếc bị bắn rơi có hai chiếc rơi tại chỗ, hàng chục giặc lái bị chết và bị bắt sống. Lời dạy của Bác mùa Xuân Kỷ Dậu năm 1969 là lời dạy cuối cùng của Bác Hồ đối với bộ đội phòng không. Bởi có ai ngờ chỉ hơn sáu tháng sau Bác đã vĩnh viễn đi xa. Bác qua đời, đó là nỗi đau thương, mất mát vô cùng to lớn của cả dân tộc, đất nước, của toàn thể lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó có bộ đội phòng không. Bộ đội phòng không có vinh dự được cử đồng chí Nguyễn Tuyên, Anh hùng quân đội, thay mặt quân chủng đứng túc trực bên linh cữu Bác ở Hội trường Ba Đình. Cũng trong thời gian đó, toàn quân chủng được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao nhất để bảo vệ an toàn cho tuần lễ tang Bác. Ngày 06-9-1969, đúng giữa những ngày đau thương đó, giặc Mỹ đã láo xược cho một máy bay không người lái xâm phạm vùng trời miền Bắc, xúc phạm đến tình cảm thiêng liêng nhất của nhân dân ta đối với Bác. Biến đau thương thành sức mạnh, chỉ bằng một quả đạn, Tiểu đoàn 51 Trung đoàn tên lửa 267 đã bắn rơi tại chỗ chiếc máy bay đó chỉ cách trận địa của mình chưa đầy 300 m. Chúng tôi gọi trận đánh đó là trận đánh "Kết vòng hoa viếng Bác". Bác không còn nữa nhưng những lời dạy của Bác vẫn là mệnh lệnh, là phương châm chiến đấu và rèn luyện của bộ đội phòng không. Những lời dạy đó vẫn là kim chỉ nam, là nguồn sức mạnh, là niềm tin để bộ đội phòng không chúng tôi có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ bầu trời Tổ quốc. Và chúng tôi, cán bộ, chiến sĩ bộ đội phòng không nguyện mãi mãi xứng đáng với Người.

(Trung tướng Trần Nhẫn, trích trong "Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")

Tâm Trang (tổng hợp)


  1. Niềm tin và sức mạnh (tiếp theo)

Rời Sở chỉ huy Sư đoàn 361, tôi quyết định xuống thăm các đơn vị ở khu Đông. Khu Đông là nơi có những mục tiêu quan trọng mà kẻ địch đang cố sức dứt điểm bằng bất cứ giá nào: Cầu Long Biên, cầu Đuống, Nhà máy điện Yên Phụ.

Xe chạy dọc theo đại lộ Nguyễn Thái Học, rẽ vào đường Hùng Vương, vòng qua Quảng trường Ba Đình. Tháng Năm, đi giữa Hà Nội, qua Ba Đình, lòng ai mà chẳng tràn đầy những cảm xúc trong sáng và đẹp đẽ. Nhất là tháng Năm này Hà Nội vừa trải qua những trận chiến đấu quyết liệt với kẻ thù. Ngày mai đã là ngày 07-5, ngày kỷ niệm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đúng ngày này, cách đây 13 năm, tôi còn đứng ở Lũng Lô trên đỉnh đèo Pha Đin, bên cạnh những khẩu súng 12,7 mm, chiến đấu với những chiếc máy bay cánh quạt của giặc Pháp.

Bây giờ đây là cả một chiến dịch phòng không hiệp đồng binh chủng quy mô lớn, đánh trả hàng trăm máy bay phản lực Mỹ, để bảo vệ không phải một đỉnh đèo mà là cả một thành phố lớn như Thủ đô Hà Nội này. Khi xe qua Quảng trường Ba Đình, tôi bảo đồng chí lái xe cho đi chậm lại một chút. Đã hơn 3 giờ chiều, khu vườn Chủ tịch im ắng, tĩnh mịch. Nắng tháng Năm vàng rực trên những cành sấu sum suê lá. Tôi đưa mắt nhìn vào trong đó và tự hỏi: Có đúng là giờ này, Bác đang ngồi làm việc trong ngôi nhà sàn mà cách đây mấy tháng tôi đã được đến gặp Bác để báo cáo với Bác tình hình chiến đấu của quân chủng? Hôm ấy, Bác rất vui. Bác hồng hào khỏe mạnh với tuổi 76 của mình.

Tháng Năm này Bác lại thêm một tuổi. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang hướng về ngày sinh của Người để chiến đấu và công tác. “Các chú cứ bắn rơi thật nhiều máy bay Mỹ là Bác khỏe”. Mấy tháng nay trên các trận địa đánh máy bay Mỹ của bộ đội phòng không, câu nói đó đã được các chiến sĩ nhắc đi nhắc lại như là một khẩu hiệu hành động hằng ngày của mình.

Xe chúng tôi vòng lên cầu Long Biên. Vào giờ này, cầu ít người qua lại, làm cho nó càng như to rộng thêm ra và dài hun hút. Nó là một chiếc cầu thôi, và đã có mặt ở đây hơn nửa thế kỷ rồi, và tôi cũng đã từng qua đây nhiều lần, nhưng sao hôm nay đi qua đây, trái tim tôi trào lên một cảm xúc khó tả. Từ ngày địch cho hàng trăm lần chiếc máy bay với âm mưu thâm độc đánh sập cầu Long Biên và cầu Đuống, hình ảnh hai chiếc cầu thường hiện ra trước mắt chúng tôi, kể cả trong bữa ăn, giấc ngủ. Sau mỗi đợt đánh phá, điều mà chúng tôi cần đồng chí trực ban báo cáo trước tiên là cầu có việc gì không? Đồng chí Phùng Thế Tài, đồng chí Đặng Tính đã từng đứng hàng giờ trên hai chiếc cầu này, sục đến các trận địa hai bên chân cầu, suy nghĩ tìm cách đánh để làm sao bảo vệ được an toàn cho hai chiếc cầu quan trọng trên trục đường giao thông huyết mạch của Tổ quốc.

Buổi chiều hôm ấy, đi đến trận địa nào tôi cũng thấy các chiến sĩ đang hân hoan đón mừng thư Bác. Thư Bác không gửi riêng cho quân chủng, cho sư đoàn, nhưng ai nấy đều cảm thấy như là Bác gửi thư cho chính đơn vị mình. Có đơn vị nắn nót chép toàn văn thư của Bác lên bảng tin thi đua. Có đơn vị chép lại thành nhiều bản phát xuống các khẩu đội để anh em vừa trực ban vừa đọc thư Bác cho nhau nghe. Thú vị nhất là những phút đến với các chiến sĩ Đại đội 72 Trung đoàn 212 bảo vệ cầu Đuống.

Trận địa Đại đội chỉ cách chân cầu chưa đầy nửa cây số. Trong những trận đánh vừa qua, trận nào Đại đội cũng phải đương đầu với sự đánh phá ác liệt của kẻ thù. Trung đoàn 212 pháo 57 mm là đơn vị làm nhiệm vụ chốt, bảo vệ cầu, thực hiện cách đánh mới sớm nhất của bộ đội phòng không Hà Nội. Khi đưa vấn đề này vào nghị quyết Đảng ủy quý I năm 1967, chúng tôi cũng đã phải thảo luận rất nhiều. Nổi lên là sự tổn thất nặng nề của bộ đội có thể xảy ra. Từ hơn một năm nay, kẻ địch thực hiện một âm mưu rất thâm độc là vừa đánh các mục tiêu vừa tăng cường đánh chế áp các trận địa phòng không. Nhiều trận chúng dùng hẳn một nửa lực lượng máy bay để đánh phá trận địa. Nhưng không thể có cách nào khác. Bởi vì qua rất nhiều cuộc rút kinh nghiệm, vấn đề đã được kết luận: Có áp sát mục tiêu mới đánh được địch bổ nhào. Có dũng cảm đánh địch bổ nhào mới tiêu diệt được máy bay địch. Có tiêu diệt được máy bay địch mới bảo vệ được mục tiêu, mới bảo vệ được sinh lực của ta.

Thực tiễn chiến đấu trong những ngày qua đã chứng minh nghị quyết của Đảng ủy về việc bố trí hỏa lực áp sát mục tiêu là hoàn toàn đúng đắn. Ngày 25-4-1967, Đại đội 72 đã bắn rơi tại chỗ một chiếc F.105, bắt sống giặc lái khi nó đang bổ nhào xuống đánh cầu Đuống. Quá trình hình thành cách đánh địch bổ nhào là quá trình đấu tranh tư tưởng chống mọi biểu hiện dao động, là quá trình thống nhất tư tưởng chỉ đạo tác chiến, trong đó nổi lên vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tiêu diệt địch, bảo vệ mục tiêu, giữ gìn lực lượng. Đại đội trưởng Đại đội 72 dẫn tôi ra bàn cát, chỉ vào vị trí Đại đội nằm cạnh chân cầu, hồ hởi nói:

- Cấp trên cho chúng tôi vào đây đánh khoái lắm Thủ trưởng ạ! Khi nó cắm đầu, cắm cổ lao xuống, chúng tôi phất cờ cũng sướng, chiến sĩ đạp cò cũng sướng, chỉ huy hô lệnh bắn cũng sướng, chứ trước đây, bố trí xa hàng cây số, bắn đạn lên cứ như vuốt đuôi, tức anh ách.

Tôi vui vẻ hỏi các chiến sĩ:

- Thế khi thấy nó bổ nhào xuống đỉnh đầu, nhất là khi thấy bom nó rơi thẳng xuống trận địa mà các cậu không sợ à?

Hai, ba chiến sĩ trẻ cùng trả lời một lúc:

- Nó sợ mình chứ mình sợ gì nó, Thủ trưởng. Mấy trận trước chúng tôi thấy nó khi nhào xuống còn có vẻ hùng hùng hổ hổ lắm. Còn trận hôm qua chúng tôi thấy hình như nó vừa lao xuống vừa run. Tất cả đều bật cười thích thú.

Đứng ở trận địa này, thấy cầu Đuống sừng sững ngay trước mặt, hầu như giơ tay là có thể sờ thấy được. Một chuyến tàu xình xịch chạy qua. Hành khách trên tàu thò tay qua cửa sổ vẫy chào các chiến sĩ.

Tôi lên đường trở về Sở chỉ huy quân chủng khi Hà Nội đã lên đèn. Đường phố vẫn đông vui. Hòa trong dòng người tấp nập trên đường phố là bóng dáng các cô tự vệ vai đeo súng, đầu đội mũ sắt, trông vừa hiên ngang, vừa nhí nhảnh. Chắc các cô vừa từ trận địa bắn máy bay trên các tầng nhà cao trở về. Chính những tay súng này đây đã góp phần tạo nên lưới lửa mà sau này một nhà báo Mỹ đã viết: “Trong tháng qua các phi công Mỹ đã phải bay qua một bức bình phong của súng phòng không và tên lửa dày đặc chưa từng có trước đây”.

*

* *

Ngày 19-5 đã đến.

Khi buổi phát thanh đầu tiên của Đài Tiếng nói Việt Nam phát đi bản nhạc chúc thọ Chủ tịch Hồ Chí Minh thì các đoàn đốc chiến của Bộ Tham mưu, Cục Chính trị, Cục Kỹ thuật, Cục Hậu cần của Bộ Tư lệnh phòng không hối hả lên đường xuống các đơn vị. Theo nhận định của trên, ngày hôm nay địch sẽ tổ chức đánh lớn vào Hà Nội.

Buổi sáng hôm ấy, đồng chí Phó Tư lệnh Lê Văn Tri và tôi trực chỉ huy chiến đấu.

Tôi nói mấy lời ngắn gọn động viên các sĩ quan tác chiến và nhân viên ở Sở chỉ huy hoàn thành nhiệm vụ thật tốt, phục vụ các đơn vị đánh thắng giòn giã, diệt thật nhiều máy bay địch, bắn rơi tại chỗ, bắt sống giặc lái để chào mừng ngày sinh của Bác.

Trên bảng thực lực, những ngọn đèn tín hiệu lấp lánh báo tin: Tất cả gần 200 bệ phóng tên lửa sẵn sàng chiến đấu tốt. Bộ đội pháo cao xạ ở tất cả các khu vực phòng không cũng đã sẵn sàng làm nhiệm vụ. Bộ đội rađa đã phát đi những tin tức đầu tiên về những tốp mục tiêu xa. Riêng khu vực Hà Nội, lực lượng tên lửa là hơn 100 bệ phóng, lực lượng cao xạ có trên dưới 10 Trung đoàn. Theo lệnh Bộ Tổng Tham mưu, tất cả lực lượng không quân tiêm kích được giao nhiệm vụ tập trung bảo vệ Hà Nội.

Theo thói quen của mỗi lần trực chỉ huy, công việc đầu tiên của tôi là cầm máy, gặp các đồng chí chính ủy các đơn vị. Anh Trương Công Cẩn, Chính ủy Binh chủng Tên lửa rất vui. Anh cho biết, theo quyết định của Bộ Tư lệnh binh chủng, hôm nay tất cả các cấp trưởng từ đại đội đến binh chủng đều làm nhiệm vụ trực chỉ huy.

Anh Cẩn nói:

- Đơn vị nào cũng muốn được góp phần bắn rơi máy bay địch trong ngày 19-5 hôm nay.

Có đồng chí nói:

- Một chiếc máy bay Mỹ bị bắn rơi trong ngày 19-5 này có giá trị gấp nhiều lần vào những lúc khác.

Tôi nói với anh Cẩn:

- Cũng đúng thôi anh ạ. Đó là tấm lòng của anh em mình đối với Bác.

Tôi qua điện cho Sư đoàn 361 và nhận ra ngay tiếng anh Văn Giang, Chính ủy Sư đoàn ở đầu dây nói:

- Sáng nay, tất cả các đơn vị đều tổ chức mít tinh ngắn gọn kỷ niệm Ngày sinh nhật Bác ngay tại trận địa. Khí thế bộ đội lên cao lắm. 100% các đơn vị có khẩu hiệu trên mâm pháo, trên mũ hướng về Ngày sinh của Bác. Anh Văn Giang là một Chính ủy bao giờ cũng có những cái mới trong công tác lãnh đạo. Tôi quay sang nói với anh Lê Chí Hướng, Trưởng phòng Tuyên huấn:

- Dưới 361 có những hình thức động viên phong phú lắm đấy. Tuyên huấn nhớ theo dõi để biểu dương kịp thời và rút kinh nghiệm phổ biến cho các nơi khác.

Từ Hải Phòng, giọng anh Lương Tý, Chính ủy Sư đoàn 363 vẫn rất rõ:

- Hôm nay là Ngày sinh của Bác, đồng thời là ngày kỷ niệm ba năm thành lập Sư đoàn, chúng tôi sẽ chiến đấu “một người bằng hai” để lập thành tích thật xuất sắc mừng thọ Bác Hồ 77 tuổi.

Chiến đấu “một người bằng hai” cũng là một hình thức thi đua đáng khuyến khích. Tôi lại quay sang nói với anh Hướng cần cử ngay một trợ lý thi đua xuống Hải Phòng nắm tình hình chiến đấu của bộ đội để biểu dương kịp thời.

Những ngày qua Hải Phòng chiến đấu tốt, được Bác gửi thư khen, được Quốc hội và Chính phủ tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhất. Đây là lần đầu tiên Huân chương cao quý này được tặng thưởng cho một thành phố. Riêng Sư đoàn 363 được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Hai.

Tôi nói với anh Tý:

- Sắp tới địch sẽ đánh mạnh Hà Nội, để gây sức ép tối đa với ta. Nhưng chúng sẽ đánh Hải Phòng ác liệt. Các anh ở xa quân chủng, phải độc lập tác chiến, vì vậy cần tăng cường đoàn kết nội bộ, đoàn kết với địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân, nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh; vừa chiến đấu vừa xây dựng. Làm tốt được những điều đó, nhất định Hải Phòng sẽ cùng với Hà Nội đập tan bước leo thang nghiêm trọng mới của kẻ thù.

9 giờ 50 phút, địch ùn ùn kéo vào từ hướng Tây Nam và Tây Bắc.

Đồng chí Lê Văn Tri phát lệnh báo động cấp I cho toàn quân chủng. Anh nhắc Binh chủng Tên lửa phải cố gắng đánh sớm, chặn đứng từng cánh quân địch ngay trên đường bay vào.

10 giờ 01 phút, các tiểu đoàn của Trung đoàn 236 bắt đầu phóng đạn. Tiểu đoàn 61 ở trận địa Văn Điển, Tiểu đoàn 64 ở trận địa Yên Nghĩa cũng phóng bốn quả đạn vào một tốp. Tin báo về một chiếc A.4 rơi tại chỗ ở Thanh Oai, Hà Tây. Trận mở đầu đẹp quá. Tôi bảo đồng chí Trực ban Chính trị thảo ngay một bức điện biểu dương kịp thời Trung đoàn 236 và thông báo cho các đơn vị khác để thi đua với 236.

Tiếp đó, 16 chiếc máy bay gồm F.4 và F.8 vào đánh phá khu kho Văn Điển. Tiểu đoàn 28, Sư đoàn 367, vừa được lệnh về đây được hai ngày đã đánh giỏi, bắn rơi một F.8, bảo vệ an toàn khu kho. Sư đoàn 361 cũng liên tiếp báo tin bắn cháy, bắn rơi máy bay địch...

Cả Sở chỉ huy náo nức. Buổi chiều bọn máy bay hải quân địch tập trung đánh vào Nhà máy điện Yên Phụ. Trên vùng trời hồ Tây, bọn A.4E quần đảo, lồng lộn, tìm cơ hội phóng bom vô tuyến vào nhà máy, nhưng bị Trung đoàn 220 bắn rát, không thực hiện được ý đồ. Trên trận địa ôm sát nhà máy điện, Đại đội trưởng Đại đội 1 anh hùng Nguyễn Huy Cảnh, tỉnh táo bỏ qua bọn F.8 nghi binh, chỉ huy đơn vị tập trung diệt bọn bổ nhào, đánh trả quyết liệt, làm cho bom của địch chệch xa ra ngoài. Các Trung đoàn 230, 210, 241 của Sư đoàn 367 đã phối hợp chặt chẽ đánh tan hai đợt công kích liên tục của địch vào nhà máy điện.

Biết không thể đánh chính diện được, bọn địch dùng thủ đoạn đánh lẻ. Trong lúc bọn F.8 lượn vòng phía tây nam hòng thu hút sự chú ý của ta, thì một chiếc A.3J là thấp theo trục sông Hồng định dở trò cắn trộm, lập tức bị lưới lửa của Đại đội 1 Trung đoàn 234 và Đại đội 1 Trung đoàn 241 quất thẳng vào mặt. Tên “chiến sĩ nhà trời” bị trọng thương, đâm đầu xuống phố Lê Trực. Tin máy bay địch rơi tại chỗ trên đường phố Hà Nội làm cho không khí Sở chỉ huy sôi động hẳn lên. Đây là một sự kiện đặc biệt, chưa từng xảy ra ở Thủ đô. Thực ra, ngày 12-6-1966 cũng đã có một chiếc rơi ở Hòa Mục, nhưng đó là một chiếc không người lái, lại rơi ở ngoại thành. Còn đây là một chiếc phản lực, hiện đại, địa điểm rơi chỉ cách nơi Bác ở khoảng 1 km. Tôi rất nóng ruột về tên giặc lái. Nó nhảy dù ra được, hay chết luôn trong máy bay. Bắn rơi tại chỗ một máy bay địch đã là quý rồi, nhưng bắt sống được giặc lái thì giá trị lại càng tăng thêm gấp bội, ý nghĩa chiến thắng được nhân lên nhiều lần. Có giặc lái, nhất định tối nay chúng ta sẽ tổ chức họp báo.

Tôi gọi điện cho anh Văn Giang nói bằng mọi cách bắt sống giặc lái nhanh nhất, đề phòng những chuyện bất trắc xảy ra.

Anh Tri chỉ thị cho đồng chí Phó phòng Quân báo Lê Tư đến ngay chỗ máy bay rơi để nắm tình hình cụ thể. Khoảng nửa tiếng sau có tin chính thức báo về: Hai tên giặc lái đã bị bắt sống. Một tên rơi xuống nóc chuồng gà nhà số 71, một tên rơi xuống ngõ 124 Thụy Khuê. Như vậy, địa điểm giặc lái bị bắt sống chỉ cách nơi Bác ở vài trăm mét. Thật là tuyệt vời. Tôi ngả người trên ghế và cảm thấy như tim mình nghẹn lại vì sung sướng. Bác đã biết tin này chưa? Nhất định Bác sẽ vui lòng với món quà sinh nhật của chúng tôi.

Rất tiếc là không có đồng chí Đặng Tính ở đây để cùng nhau chia sẻ niềm vui to lớn này. Mặc dù vậy, tôi vẫn hình dung thấy rõ nét mặt hân hoan và nụ cười bao giờ cũng hết cỡ của anh. Đại tướng Võ Nguyên Giáp lúc này đang có mặt tại Sở chỉ huy Sư đoàn 361. Đồng chí đã nhiệt liệt biểu dương chiến công xuất sắc của bộ đội phòng không Hà Nội.

*

* *

Những trận đánh tháng 5-1967 còn tiếp diễn cho đến ngày 22-5-1967 và Hà Nội đã ghi vào lịch sử của mình một con số đáng tự hào: Chỉ riêng tháng 5 ta đã bắn rơi 35 máy bay giặc Mỹ, diệt và bắt sống nhiều giặc lái. Cuộc tập kích quy mô lớn bằng không quân của địch vào Hà Nội với 436 lần chiếc, đánh vào cả ba cụm mục tiêu: Giao thông, công nghiệp, điện đã bị đập tan. Hà Nội đã đứng vững và tự hào nhận tấm Huân chương Độc lập hạng Nhất mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa ký lệnh tặng thưởng cho đồng bào và chiến sĩ Thủ đô. Còn bọn giặc lái Mỹ thì kinh hoàng nghĩ đến một chuỗi máy bay đã vĩnh viễn mất hút trong khoảng xanh bất tận đầy nắng tháng năm của trời Hà Nội, "một vùng trời không vui" đối với chúng. Bọn giặc lái đã bắt đầu ghê sợ khi nhắc đến vùng trời ở 21 độ vĩ tuyến Bắc, 105 độ kinh tuyến Đông, mà chúng gọi là "tọa độ lửa". Tên Mác Cônen, Tham mưu trưởng không quân Mỹ, sau đòn đầu tháng năm đã phải thốt lên: "Vùng Hà Nội, Hải Phòng có hệ thống phòng không tập trung mạnh nhất mà người ta chưa hề thấy trong lịch sử phòng thủ của bất kỳ một thành phố nào, hoặc một khu vực nào trên thế giới".

(Theo Trung tướng Nguyễn Xuân Mậu, trích trong ""Bác Hồ - nguồn sức mạnh của bộ đội Phòng không")

Tâm Trang (tổng hợp)

de tang cuong moi quan he 2Với quyết tâm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam vì sự phồn vinh của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân, Đảng đang tích cực xây dựng, chỉnh đốn; thực hiện kiểm soát quyền lực; phát huy tiềm lực, khắc phục những trở lực, tha hóa trong Đảng; từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước...