Trong bối cảnh khu vực và thế giới có những biến động nhanh chóng, phức tạp, khó lường, với các thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen như hiện nay, vấn đề bảo vệ lợi ích chiến lược của các quốc gia - dân tộc càng được đặt ra cấp thiết. Để bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước, Việt Nam luôn tích cực, chủ động phát huy, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi (Trong ảnh: Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại phiên thảo luận chung cấp cao khoá họp 76 Đại hội đồng Liên hợp quốc). Ảnh: Tư liệu
Khái niệm lợi ích chiến lược
Lợi ích là sự phản ánh quan hệ nhu cầu giữa các chủ thể và dùng để thỏa mãn nhu cầu của các chủ thể xã hội (cá nhân, tập đoàn, giai cấp, tầng lớp, quốc gia, dân tộc...) trong những điều kiện lịch sử - xã hội nhất định. Lợi ích của đất nước bao giờ cũng được phản ánh trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quân sự, ngoại giao...; có các hình thức lợi ích vật thể, lợi ích phi vật thể; lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài; lợi ích trong nước và các lợi ích hợp pháp khác ở nước ngoài. Đối với Việt Nam, lợi ích quốc gia - dân tộc là lợi ích của nhân dân; bảo vệ chủ quyền, lợi ích của đất nước là nội dung cốt lõi, nền tảng, nguyên tắc bất biến để giải quyết mọi vấn đề.
Chiến lược là tổng thể các phương châm, chính sách và mưu lược được hoạch định để xác định mục tiêu, sắp xếp, quy tụ lực lượng và đề ra giải pháp nhằm đạt một mục đích nhất định bằng con đường có lợi nhất, tạo ra trạng thái phát triển mới của một lĩnh vực (chiến lược chuyên ngành), toàn xã hội (chiến lược quốc gia) hoặc toàn thế giới (chiến lược toàn cầu) trong một thời kỳ nhất định. Chiến lược được áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học, quân sự, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... Việc lựa chọn các mục tiêu chiến lược hiện thực (mục tiêu cơ bản, mục tiêu trung gian, mục tiêu trước mắt), sắp xếp lực lượng chiến lược hợp lý (lực lượng chủ lực, lực lượng hậu bị) và tìm các giải pháp chiến lược khả thi (giải pháp cơ bản, giải pháp tình thế, các chính sách liên quan) là các yếu tố đặc trưng của chiến lược.
Căn cứ vào tầm quan trọng của lợi ích, có thể thấy lợi ích cơ bản của Việt Nam là Tổ quốc độc lập, thống nhất, giàu mạnh, lãnh thổ toàn vẹn (cả vùng đất, vùng trời, vùng biển, hải đảo), nhân dân làm chủ để thực hiện thành công mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, nhân dân ấm no, tự do, hạnh phúc. Lợi ích chiến lược là nội dung cốt lõi trong lợi ích cơ bản của đất nước, nó có hàm nghĩa sâu hơn. Lợi ích chiến lược của đất nước là tổng thể các mục tiêu cơ bản, trước mắt, lâu dài và mang tầm vĩ mô cần đạt được trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học - công nghệ, quân sự, quốc phòng, an ninh, ngoại giao... để bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ chính trị, bảo đảm quốc gia - dân tộc ngày càng phát triển lớn mạnh, có vị thế quốc tế ngày càng cao. Lợi ích chiến lược của đất nước không chỉ giới hạn trong phạm vi lãnh thổ thuộc chủ quyền của quốc gia - dân tộc, mà còn là những lợi ích chính đáng nằm bên ngoài biên giới, lãnh thổ; là những quyền liên quan đến khả năng sinh tồn và phát triển của đất nước như hòa bình, hợp tác và phát triển; là quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, trên không, đất liền, trên không gian mạng, dưới lòng đất... được luật pháp quốc tế công nhận. Nội dung tối thượng trong lợi ích chiến lược của đất nước là “giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo đảm các điều kiện cho sự phát triển của quốc gia - dân tộc”; mục tiêu lớn nhất là sự trường tồn và hưng thịnh của đất nước.
Lợi ích chiến lược của đất nước là căn cứ quan trọng để xác định hình thức, biện pháp tổ chức thực hiện, tiến hành bằng cả sức mạnh vật chất và tinh thần trong quá trình hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược. Bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước là bảo vệ hòa bình, ổn định chính trị - xã hội, ngăn ngừa chiến tranh, xung đột...; bảo vệ quyền chủ quyền, quyền tài phán trên biển, đất liền, dưới lòng đất, trên không, trên không gian mạng...; bảo vệ cục diện đã được thiết lập, đan cài với các nước, có lợi cho Việt Nam; không đẩy Việt Nam vào trạng thái bị động, bất ngờ, trong thế bị bao vây, cô lập trên trường quốc tế; lấy sự ràng buộc lợi ích giữa Việt Nam với các nước để tạo thế cân bằng chiến lược trong mọi tình huống... Bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước phải dựa vào đấu tranh kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hóa - xã hội... trong đó, lấy đấu tranh ngoại giao, pháp lý là chủ yếu. Đại hội XIII của Đảng xác định: “Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”1.
Bảo vệ lợi ích chiến lược của Việt Nam trong bối cảnh hiện nay
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Cạnh tranh chiến lược, xung đột cục bộ diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và gay gắt hơn. Xu hướng đề cao sự tương đồng lợi ích đóng vai trò chi phối; tính đối tác, đối tượng trong quan hệ quốc tế đan xen, chuyển hóa linh hoạt, trên từng lĩnh vực cụ thể: “Tình hình tập hợp lực lượng, liên kết, cạnh tranh lợi ích giữa các nước diễn ra phức tạp, vừa mang lại cơ hội, vừa đặt các nước khác, nhất là các nước vừa và nhỏ trước nhiều khó khăn, thách thức. Những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền áp đặt, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa bảo hộ ngày càng nổi lên trong quan hệ quốc tế”2. Các nước ngày càng có xu hướng thực dụng trong chính sách đối ngoại vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Lịch sử quan hệ giữa các quốc gia đã chứng minh, lợi ích quốc gia - dân tộc là mục tiêu cơ bản và nhân tố quyết định trong việc hoạch định chính sách đối ngoại. Vì lợi ích của quốc gia - dân tộc mình, các nước lớn có thể thương lượng, điều hòa lợi ích với nhau bằng cách “bật đèn xanh” hay làm ngơ cho những hành động xâm lấn bằng các hình thức, thậm chí dùng sức mạnh kinh tế, quân sự... bất chấp luật pháp quốc tế tiến hành xâm phạm chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích chính đáng, hợp pháp của các nước... khiến luật pháp quốc tế và các thể chế đa phương toàn cầu đứng trước những thách thức lớn.
Trong một số trường hợp, vì lợi ích trước mắt hoặc lâu dài của mình, nhiều nước không chỉ im lặng không lên án, phản đối hành động sai trái, mà còn lên tiếng ủng hộ những hành động sai trái, vi phạm luật pháp quốc tế... Trong giải quyết những vấn đề kinh tế, chính trị của thế giới, khu vực, một số nước đã thay đổi lập trường, quan điểm từ đồng thuận, ủng hộ sang quan điểm trung dung, im lặng và thậm chí là đối lập, từ đó làm thay đổi cục diện trong tương quan so sánh lực lượng, đẩy nước khác vào thế bị động, bất ngờ và bị cô lập. Đặc biệt nguy hiểm hơn là các nước lớn có thể biến độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nước nhỏ trở thành “vật trao đổi” lợi ích của họ trong bàn cờ chính trị thế giới... hoặc sử dụng tiềm lực kinh tế và sức mạnh quân sự vượt trội, tiến hành các hoạt động chèn ép về kinh tế, chính trị, ngoại giao, răn đe về quân sự, thậm chí là ngang nhiên, trắng trợn xâm lấn biên giới, vi phạm chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán của nước khác, bất chấp luật pháp quốc tế.
Ở trong nước, các thế lực thù địch tiến hành chiến lược “diễn biến hòa bình” kết hợp với bạo loạn lật đổ, thúc đẩy tự diễn biến, tự chuyển hóa. Đặc biệt nguy hiểm là, các thế lực phản động ở trong nước móc nối với lực lượng phản động, thù địch ở ngoài nước lựa chọn các phần tử cực đoan để xây dựng ngọn cờ, tập hợp lực lượng, tiến hành các hoạt động chống phá, mưu toan gây mất đoàn kết giữa các dân tộc; tạo ra các “điểm nóng”, gây ra các vụ bạo loạn, để lực lượng phản động, thù địch ở nước ngoài can thiệp, hòng lật đổ chế độ; đòi ly khai, tự trị, đòi thành lập các thực thể riêng, thoát ly khỏi sự quản lý của Nhà nước, như cái gọi là: “Nhà nước Tin lành Đề-ga” ở Tây Nguyên, “Vương quốc Khmer Krom” ở Tây Nam Bộ, “Vương quốc Mông” ở Tây Bắc...; gia tăng lợi dụng quá trình cải cách thể chế, pháp luật, thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam để từng bước tác động chuyển hóa, can thiệp công việc nội bộ của nước ta, thông qua việc câu kết với các đối tượng trong nước chống phá Việt Nam về dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, nhằm từng bước thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam. Các vấn đề này trực tiếp đe dọa đến an ninh quốc gia và lợi ích quốc gia - dân tộc.
Trong bối cảnh hiện nay, tình hình thế giới và trong nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước, cần tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Một là, đấu tranh bảo vệ chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước phải gắn chặt với bảo vệ hòa bình, ổn định chính trị - xã hội, bảo vệ các giá trị chuẩn mực của luật pháp quốc tế.
Trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước phải được thực hiện trên tinh thần độc lập, tự chủ. Việt Nam luôn nhất quán quan điểm không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Đồng thời, căn cứ vào tình hình, điều kiện cụ thể, “Việt Nam sẽ cân nhắc phát triển các quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, hợp tác cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và cộng đồng quốc tế”3. Việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng được thực hiện theo phương châm kiên quyết, kiên trì đấu tranh bằng các biện pháp hòa bình (đàm phán, trọng tài, tòa án quốc tế...) trên cơ sở luật pháp quốc tế. Cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền và lợi ích chiến lược của đất nước gắn liền với cuộc đấu tranh bảo vệ các chuẩn mực của luật pháp quốc tế. Kêu gọi sự ủng hộ, đồng thuận của cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp, bất đồng trên tinh thần luật pháp quốc tế.
Trong hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, tiếp tục đẩy mạnh, không ngừng mở rộng và đi vào chiều sâu mối quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần củng cố môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển. Bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước không chỉ sử dụng thuần túy sức mạnh nội sinh của quốc gia - dân tộc, mà cần kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế. Trong đó, sức mạnh quốc tế chỉ được phát huy cao độ khi Việt Nam đứng vững trên lập trường chính nghĩa, dựa trên luật pháp quốc tế, phù hợp với giá trị chung mà nhân loại cùng quan tâm, như: Bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, các lợi ích chiến lược của đất nước phù hợp với luật pháp quốc tế; phát huy vai trò, trách nhiệm trong bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới; mở rộng hợp tác với các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau cũng như các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực, quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: “đẩy mạnh đưa quan hệ với các đối tác, đặc biệt là đối tác quan trọng, đi vào chiều sâu, hiệu quả, bền vững, tăng cường đan xen lợi ích; xử lý linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn”4.
Sử dụng hiệu quả các biện pháp chính trị ngoại giao tại khoản 1, Điều 33 của Hiến chương Liên hợp quốc: “Các bên đương sự trong các cuộc tranh chấp, mà việc kéo dài các cuộc tranh chấp ấy có thể đe dọa đến hòa bình và an ninh quốc tế, trước hết, phải cố gắng tìm cách giải quyết tranh chấp bằng con đường đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, sử dụng những tổ chức hoặc những điều ước khu vực, hoặc bằng các biện pháp hòa bình khác tùy theo sự lựa chọn của mình”. Đồng thuận, nhất quán với quan điểm đó, nhân kỷ niệm 53 năm Ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á - ASEAN (8-8-1967 - 8-8-2020), Bộ trưởng Ngoại giao của 10 nước ASEAN đã ra Tuyên bố về việc duy trì hòa bình và ổn định ở Đông Nam Á: “Kêu gọi tất cả các nước kiềm chế, không tiến hành các hoạt động làm phức tạp hoặc leo thang tranh chấp và ảnh hưởng tới hòa bình, ổn định, không sử dụng hay đe dọa sử dụng vũ lực và giải quyết các khác biệt và tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế”. Tôn trọng luật pháp quốc tế là cách thức hữu hiệu nhằm ngăn ngừa xung đột cũng như tìm kiếm những giải pháp lâu bền cho tranh chấp, xung đột. Theo đó, Việt Nam cần tiếp tục ủng hộ mọi nỗ lực thực hiện các biện pháp hòa bình giải quyết tranh chấp theo Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, từ thương lượng, hòa giải tới việc sử dụng các cơ chế pháp lý quốc tế. Tích cực triển khai các cam kết khu vực và quốc tế, lồng ghép với các chiến lược, chính sách, kế hoạch và chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chứng kiến Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Bùi Thanh Sơn và Tổng Thư ký Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) Mathias Cormann trao đổi biên bản ghi nhớ hợp tác giữa Việt Nam và OECD giai đoạn 2022 - 2026. Ảnh: TTXVN
Hai là, mềm dẻo, linh hoạt, kiên trì, kiên quyết trong giải quyết mối quan hệ với các nước, tổ chức quốc tế vì lợi ích chiến lược của đất nước.
Tương quan so sánh lực lượng giữa các nước lớn trong khu vực đang có sự thay đổi dẫn đến sự điều chỉnh chính sách và quan hệ giữa các nước lớn, tập hợp lực lượng xung quanh các nước lớn và trật tự khu vực đang diễn ra quyết liệt, khó lường. Việt Nam, với vị thế địa - chính trị của mình cũng không thể nằm ngoài vòng xoáy của thay đổi tương quan lực lượng và điều chỉnh chính sách của các nước lớn trong khu vực, đòi hỏi cũng phải có sự điều chỉnh chính sách, nhất là chính sách đối ngoại để thực hiện được mục tiêu bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước theo phương châm: Kiên định về mục tiêu, nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, mềm dẻo về sách lược; kiên trì giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp quốc tế; tranh thủ sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân trong nước, dư luận quốc tế: “Thúc đẩy việc tôn trọng, tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và phổ quát của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế trong quan hệ quốc tế, nhất là tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ chính trị - xã hội, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước... bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia, bác bỏ hành vi cường quyền, áp đặt, gây căng thẳng và thù địch trong quan hệ quốc tế”5.
Trong quan hệ đối ngoại, Việt Nam cần chủ động tranh thủ, khai thác có hiệu quả những điểm tương đồng, tạo dựng mặt đồng thuận, hạn chế, khắc chế mặt bất đồng với những tác hại đến lợi ích chiến lược của đất nước. Coi trọng và xử lý đúng đắn, linh hoạt, hài hòa quan hệ giữa các nước, nhất là các nước lớn, các nước có chung đường biên giới, các nước láng giềng, các tổ chức khu vực và quốc tế dựa trên vị trí địa chiến lược, lợi ích chiến lược của đất nước. Thực hiện tốt các trọng trách quốc tế, nhất là trong ASEAN, Liên hợp quốc và các khuôn khổ hợp tác ở châu Á - Thái Bình Dương; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước xây dựng Cộng đồng ASEAN vững mạnh và phát triển bền vững. Phát triển quan hệ với các đảng cộng sản, các đảng cầm quyền ở các nước và những tổ chức, phong trào tiến bộ khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; mở rộng tham gia các cơ chế, diễn đàn đa phương trong khu vực và trên thế giới. Chủ động đẩy mạnh hợp tác theo hướng thiện chí, minh bạch, tăng cường xây dựng lòng tin với các đối tác. Trong đó, cần khéo léo, không để hiểu lầm Việt Nam “bắt tay” với nước này chống nước kia, gây phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc.
Bối cảnh quốc tế, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, khó đoán định. Do đó, cần đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, phân tích, đánh giá, dự báo toàn diện tình hình và xu thế phát triển trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, đối ngoại, khoa học - công nghệ, quân sự... của quốc tế, khu vực, các nước lớn, các nước ở Đông Nam Á; thực trạng và xu hướng phát triển mối quan hệ giữa các nước lớn, các nước Đông Nam Á, các nước có nhiều lợi ích liên quan đối với Việt Nam. Nhận diện kịp thời, đúng đắn, thực chất mối quan hệ, sự thỏa thuận hoặc mâu thuẫn, thống nhất giữa các nước lớn với các nước ở khu vực trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, khu vực liên quan đến chủ quyền, lợi ích của Việt Nam. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc lớn (chủ nghĩa sô-vanh mới), chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân tộc ly khai và chủ nghĩa dân tộc biệt lập.
Đấu tranh, phê phán các quan điểm sai lầm, phản động trong việc tuyệt đối hóa lợi ích quốc gia - dân tộc mình, xem nhẹ lợi ích của quốc gia - dân tộc khác, lảng tránh những vấn đề toàn cầu, có ảnh hưởng đến sự tồn vong của nhân loại, như dịch bệnh, đói nghèo, ô nhiễm môi trường và chiến tranh... Kiên quyết, kiên trì trong việc giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, biên giới trên bộ, trên biển, đảo bằng giải pháp hòa bình, trên cơ sở hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích giữa các nước, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Trong đó, hợp tác giải quyết tốt các vấn đề về xung đột lợi ích giữa các quốc gia trên biển, nhất là việc giải quyết thỏa đáng vấn đề chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia ở Biển Đông; kiên trì, kiên quyết bảo vệ các lợi ích chính đáng của Việt Nam phù hợp với luật pháp quốc tế.
Xây dựng cơ sở pháp lý vững chắc, kiên quyết thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển trên cơ sở luật pháp quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), kiên trì thông qua đối thoại giải quyết hòa bình vấn đề tranh chấp ở Biển Đông, hạn chế, loại trừ xung đột vũ trang, tạo môi trường và điều kiện tốt nhất để bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước. Kiên quyết ngăn chặn những biểu hiện chỉ vì lợi ích cục bộ, lợi ích địa phương, lợi ích riêng của doanh nghiệp mình mà làm ảnh hưởng, vi phạm, phương hại đến lợi ích quốc gia - dân tộc, lợi ích chiến lược của đất nước trong quá trình hợp tác, quan hệ với nước ngoài. Thường xuyên nâng cao năng lực nghiên cứu dự báo chiến lược, giữ vững thế chủ động chiến lược, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.
Ba là, tích cực, chủ động nâng cao uy tín và vị thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế.
Nâng cao hiệu quả các hoạt động đối ngoại, tiếp tục xây dựng và phát triển quan hệ của Việt Nam đối với khu vực và quốc tế đi vào chiều sâu, thực chất trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, phát huy tối đa nội lực, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc; chủ động ngăn ngừa và giảm thiểu tác động tiêu cực của quá trình hội nhập quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; vì lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; giữ vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; không ngừng nâng cao uy tín và vị thế của đất nước; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Điều này thể hiện Việt Nam không chỉ “là bạn, đối tác tin cậy” của các quốc gia, mà còn phải là “một thành viên có trách nhiệm” trong cộng đồng quốc tế.
Thượng tướng Hoàng Xuân Chiến, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và tùy viên quân sự các nước tại Việt Nam dự Lễ ra mắt Đội công binh số 1 và Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 4 tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Abyei và Nam Sudan. Ảnh: TTXVN
Chủ động đề xuất sáng kiến, cơ chế hợp tác trên nguyên tắc cùng có lợi, vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới, nhằm tạo ra sự thay đổi về chất trong hợp tác quốc tế về pháp luật. Gia tăng sự đan xen gắn kết lợi ích, mức độ tùy thuộc lẫn nhau về mọi mặt, kể cả trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh giữa Việt Nam với các đối tác. Muốn vậy, Việt Nam cần nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia, phải có thực lực mạnh thì lợi ích chiến lược của đất nước mới được giữ vững, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Ta có mạnh thì họ mới chịu đếm xỉa đến. Ta yếu thì ta chỉ là một khí cụ trong tay của kẻ khác, dầu kẻ ấy có thể là bạn đồng minh của ta vậy”6. Thực lực của Việt Nam là sức mạnh tổng hợp mọi mặt cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...; cả “thực lực vật chất” và “thực lực phi vật chất”, “sức mạnh cứng” và “sức mạnh mềm”; kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Thực tiễn cho thấy, các nước lớn luôn giữ vai trò dẫn dắt, định hình cục diện; tuy nhiên, những quốc gia tầm trung, có thực lực đủ mạnh luôn giữ được một vị thế, vai trò nhất định, ở vào một vị thế tốt hơn để bảo vệ độc lập, tự chủ, lợi ích chiến lược của đất nước.
Tích cực và chủ động sử dụng các diễn đàn, cơ chế khu vực do ASEAN giữ vai trò chủ đạo để tạo thuận lợi cho các đối tác tham gia và đóng góp vào việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn hàng hải và hàng không trên Biển Đông. Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị - xã hội của Việt Nam. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc. Tích cực tham gia có hiệu quả vào cuộc đấu tranh của nhân dân và các tổ chức, các lực lượng tiến bộ trên thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nâng cao khả năng thích ứng năng động và linh hoạt xử lý hài hòa lợi ích quốc gia với quan tâm chung, tùy theo từng đối tượng, vấn đề, thời điểm cụ thể, phù hợp với luật pháp quốc tế và các nguyên tắc ứng xử tại khu vực, trên tinh thần lợi ích quốc gia - dân tộc là tối cao.
Giải quyết tốt những vấn đề do lịch sử để lại với các nước láng giềng, làm tốt công tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển. Chủ động hóa giải những vấn đề mới nảy sinh một cách có hiệu quả; tuyệt đối không để các thế lực thù địch lợi dụng những vấn đề do lịch sử để lại nhằm kích động hận thù dân tộc, chia rẽ quan hệ hữu nghị giữa các nước, làm cho tình hình quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng trở nên phức tạp, khó lường, đe dọa đến môi trường hòa bình, ổn định trong khu vực. Thực hiện nghiêm các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, nâng cao năng lực hội nhập và mức độ hưởng lợi từ hội nhập, tiếp tục có những đóng góp xứng đáng vào việc phát triển kinh tế, xã hội, bảo vệ môi trường khu vực và quốc tế. Giữ vững nguyên tắc độc lập, tự chủ, không lệ thuộc trong quan hệ với các nước, trong đó có các nước lớn. Ngoài ra, yêu cầu bảo vệ lợi ích chiến lược của đất nước đòi hỏi rất cao ý thức trách nhiệm công dân của mọi người dân Việt Nam, ý thức trách nhiệm trước Tổ quốc của các chủ thể, các lực lượng, đặc biệt là những lực lượng trực tiếp tham gia các hoạt động đối ngoại, hợp tác với nước ngoài, trong đó tập trung nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chú trọng đào tạo, sắp xếp, bố trí hợp lý đội ngũ các chuyên gia tư vấn, xây dựng chiến lược, đường lối, chính sách, pháp luật./.
TS. Nguyễn Đức Lợi - TS. Nguyễn Năng Nam
Thiếu tướng, Chính ủy Học viện Khoa học quân sự, Bộ Quốc phòng - Trung tá, Khoa Lý luận Mác - Lênin, Học viện Khoa học quân sự,
Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Cộng sản
Tâm Trang (st)
----------------
1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 110
2. Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 11
3. Bộ Quốc phòng: Quốc phòng Việt Nam 2019, Sđd, tr. 25
4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 153
5. Chỉ thị số 25-CT/TW, ngày 8-8-2018, của Ban Bí thư, “Về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030”
6. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t. 7, tr. 244