Xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là chủ trương lớn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đây cũng là đòi hỏi khách quan, bảo đảm cho quân đội đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao trong tình hình mới.
Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc dự Lễ xuất quân các lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc _Ảnh: TTXVN
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ rõ: “Chúng ta phải ra sức xây dựng Quân đội ta thành một quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và hiện đại, để giữ gìn hòa bình, bảo vệ Tổ quốc”(1). Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội, Công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại”(2).
Quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quốc phòng, quân sự của Đảng, trực tiếp là đường lối xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cũng như yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, những năm qua, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai đồng bộ các giải pháp nhằm xây dựng quân đội “tinh, gọn, mạnh”, bước đầu đạt được một số kết quả quan trọng; bảo đảm sự cân đối, tương đối đồng bộ giữa các quân chủng, binh chủng, giữa cơ quan và đơn vị, giữa lực lượng thường trực và lực lượng dự bị động viên.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, quân đội ta từ đội quân nhỏ, lẻ, trang bị giáo mác nhiều hơn súng đạn đã phát triển thành một tổ chức vũ trang; cơ cấu tổ chức của lực lượng vũ trang ba thứ quân bao gồm: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, quân đội ta từng bước phát triển thành một quân đội chính quy, vững mạnh, có đủ các trung đoàn, sư đoàn bộ binh mạnh và các quân chủng, binh chủng. Sau năm 1975, từ 11 quân khu và 2 bộ tư lệnh thành phố rút gọn lại thành 8 quân khu. Sau chiến tranh biên giới, đã giải thể một số quân đoàn trong quân khu, đặc khu Quảng Ninh; một số sư đoàn đủ quân trở thành sư đoàn khung thường trực. Năm 2008, tổ chức lại Quân khu Thủ đô thành Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội.
Từ năm 2016 đến nay, quân đội đã điều chỉnh 1.286 tổ chức, giải thể các trường nghề và 61 trường quân sự cấp tỉnh; tăng cường lực lượng bảo vệ biên giới, biển, đảo và lực lượng, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Các cơ sở sản xuất, sửa chữa, công nghiệp quốc phòng, đoàn kinh tế - quốc phòng được điều chỉnh hợp lý, giảm bớt các tổ chức trung gian, từng bước khắc phục sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Các đơn vị dự bị động viên, phương tiện kỹ thuật được tổ chức, sắp xếp đủ 100% số đầu mối đơn vị theo quy định.
Để xây dựng quân đội hiện đại, những năm qua, công nghiệp quốc phòng từng bước phát triển theo hướng hiện đại, lưỡng dụng, đáp ứng một phần nhu cầu vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang và góp phần tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, nghiên cứu, thiết kế, làm chủ công nghệ chế tạo và sản xuất được một số loại vũ khí chiến lược cần thiết cho phòng thủ đất nước; từng bước bảo đảm đủ số lượng, nâng cao chất lượng, đáp ứng kịp thời vũ khí, trang bị kỹ thuật cho các đơn vị làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ biển, đảo,... Những kết quả này là tiền đề rất quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng; đồng thời, tạo tiền đề vững chắc để phấn đấu từ năm 2030 xây dựng quân đội hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực, xu thế hòa bình, hợp tác, phát triển vẫn là chủ đạo, nhưng tiếp tục có những diễn biến phức tạp. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, nhất là tranh chấp chủ quyền biển, đảo,... diễn ra phức tạp, quyết liệt. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm xuất hiện nhiều loại vũ khí mới; cùng với đó, chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao và chiến tranh phi tiếp xúc ngày càng trở nên phổ biến. Các vấn đề an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, khủng bố, tội phạm, thiên tai, dịch bệnh,... ngày càng phức tạp. Đối với nước ta, sau hơn 35 năm đổi mới, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế không ngừng được nâng cao, tạo tiền đề quan trọng để phát triển mạnh mẽ và bền vững hơn trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, chúng ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước, quân đội bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” quân đội,... với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó nhận diện. Tình hình trên đặt ra những yêu cầu mới rất cao đối với sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Việc xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại cần quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả những nội dung cơ bản sau:
Một là, quán triệt và thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương về xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh.
Đây là nội dung bao trùm, chỉ đạo xuyên suốt, có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện mục tiêu xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, bảo đảm cho quân đội có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Để làm tốt vấn đề này, trước hết, cần tập trung quán triệt sâu sắc Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17-1-2022, của Bộ Chính trị, về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo; Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 2-4-2022, của Quân ủy Trung ương, về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo,... Trên cơ sở đó, từng cấp chủ động xây dựng kế hoạch tổng thể, phương pháp tiến hành chặt chẽ, khoa học, với lộ trình, bước đi cụ thể, điều chỉnh tăng, giảm tổ chức, quân số của từng khối phù hợp với đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, khả năng bảo đảm vũ khí, trang bị, giữ vững và phát huy truyền thống quân đội, nghệ thuật quân sự Việt Nam. Xây dựng, điều chỉnh tổ chức quân đội theo hướng tinh, gọn, mạnh, có cơ cấu đồng bộ, hợp lý giữa các thành phần, lực lượng; giảm đầu mối trung gian và đơn vị phục vụ, bảo đảm. Tiếp tục tổ chức một số đơn vị dự bị chiến lược theo quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, bảo đảm quân đội có đủ khả năng làm nòng cốt cùng toàn dân hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.
Thượng tướng Phan Văn Giang, Tổng Tham mưu trưởng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kiểm tra công tác sẵn sàng chiến đấu tại Lữ đoàn 144 (Bộ Tổng Tham mưu), ngày 20-1-2021 _Nguồn: qdnd.vn
Tổ chức quán triệt sâu sắc nghị quyết của Bộ Chính trị, nghị quyết của Quân ủy Trung ương và kế hoạch của Bộ Quốc phòng về điều chỉnh tổ chức lực lượng đến các đối tượng, bảo đảm chặt chẽ, đúng quy định, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ ở từng cấp. Phát huy sức mạnh tổng hợp của các cơ quan, đơn vị trong quân đội và của cả hệ thống chính trị, thống nhất nhận thức và nâng cao trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cơ quan, đơn vị trong tổ chức thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, tiến lên hiện đại, tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, có sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.
Quá trình điều chỉnh tổ chức Quân đội phải đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Chính trị và sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước; sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các cấp. Biện pháp thực hiện phải toàn diện, đồng bộ, phù hợp với thực tế; kết hợp chặt chẽ công tác tư tưởng với công tác tổ chức và công tác chính sách, tuyệt đối không được chủ quan, nóng vội, đơn giản một chiều hay hành chính hóa.
Hai là, kiên định nguyên tắc xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị.
Đây là vấn đề cơ bản, nguyên tắc bất di, bất dịch xuyên suốt quá trình xây dựng, chiến đấu, trưởng thành của quân đội nhân dân, nhằm giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của Đảng; là nhân tố quyết định việc hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Quán triệt sâu sắc, kiên định tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội; theo đó, xây dựng quân đội phải toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực quân sự, chính trị, hậu cần, kỹ thuật và trên mọi nhiệm vụ chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện, lao động sản xuất và công tác. Trong đó, phải đặc biệt quan tâm xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, vì “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”(3).
Việc xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh phải bảo đảm gọn về tổ chức, nâng cao chất lượng về mọi mặt, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội. Chăm lo xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các cấp ủy, tổ chức đảng, tính tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trong toàn quân. Cấp ủy, chỉ huy các cấp tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chính trị, định hướng tư tưởng, làm cho cán bộ, chiến sĩ luôn vững vàng, kiên định lập trường, mục tiêu, lý tưởng, nhận thức sâu sắc tình hình nhiệm vụ, thấy được hết thuận lợi, khó khăn, xác định rõ trách nhiệm và quyết tâm hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ. Chú trọng tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa,... Tích cực, chủ động đi đầu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Kiên quyết, kiên trì thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các chủ trương, quy định của Trung ương, của Quân ủy Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị, về những điều đảng viên không được làm, về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới, với các mô hình, cách làm sáng tạo, phù hợp.
Ba là, thường xuyên rà soát, kiện toàn tổ chức, biên chế, trang bị của từng cơ quan, đơn vị, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Tổ chức, biên chế, trang bị là những nhân tố quan trọng cấu thành chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Vì vậy, trên cơ sở biểu tổ chức biên chế mới, các cơ quan, đơn vị phải thường xuyên rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ. Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng quân đội đặt ra ở từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đặt ra ngày càng cao, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động ngày càng sâu sắc tới tất cả các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng quân đội nói chung là yêu cầu khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại.
Các chiến sĩ Trung đoàn 923 - đơn vị không quân tiêm kích đa năng thuộc Sư đoàn Không quân 371, Quân chủng Phòng không - Không quân trao đổi rút kinh nghiệm sau buổi bay huấn luyện _Nguồn: Zing.vn
Trên tinh thần đó, từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo. Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Bốn là, quán triệt sâu sắc quan điểm “người trước, súng sau”, thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo.
Đây là một trong những khâu then chốt, đột phá, có ý nghĩa quyết định, bảo đảm cho quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ trong điều kiện mới. Sức mạnh của quân đội là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, nghệ thuật tác chiến..., trong đó, con người là nhân tố quyết định. Vì thế, việc xây dựng nhân tố con người, trực tiếp là nguồn nhân lực chất lượng cao cần được chú trọng và xem như một yếu tố có ý nghĩa quyết định trong xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Việc xây dựng nguồn nhân lực cần chú trọng cả về số lượng và chất lượng theo lộ trình hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật của các quân chủng, binh chủng, lực lượng. Cần có sự đột phá trong đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học quân sự, các chuyên gia đầu ngành, đội ngũ nhà giáo ở các học viện, nhà trường quân đội; quan tâm phát triển đội ngũ cán bộ quân sự, chính trị chất lượng cao; xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần, kỹ thuật có trình độ, năng lực chuyên môn sâu, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Các cơ quan, đơn vị cần có quy hoạch, kế hoạch xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao bảo đảm nhu cầu sử dụng cả trước mắt và lâu dài; xây dựng tiêu chí nguồn nhân lực làm cơ sở xem xét, đánh giá, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ một cách chính xác.
Cùng với đó, phải đổi mới, nâng cao chất lượng huấn luyện - đào tạo ở các nhà trường quân đội, tạo nguồn cán bộ các cấp có đủ phẩm chất cách mạng, tư duy, năng lực chuyên môn, trình độ chỉ huy, quản lý,... theo chức trách. Xây dựng nhà trường, viện nghiên cứu tinh, gọn, mạnh, hiện đại; gắn đào tạo ở nhà trường với đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ở đơn vị; gắn nhà trường với chiến trường; gắn lý luận với thực tiễn; gắn trách nhiệm của cấp ủy, người chỉ huy với kết quả huấn luyện của đơn vị. Trong đó, việc tổ chức huấn luyện phải chặt chẽ, linh hoạt, đúng phương châm, quan điểm, nguyên tắc, các mối kết hợp; chú trọng truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn, nâng cao năng lực thực hành, làm chủ vũ khí, trang bị, khí tài mới, hiện đại, sức cơ động và khả năng tác chiến trong điều kiện mới cho các đối tượng; tích cực ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ mô phỏng, các phương tiện kỹ thuật hiện đại trong huấn luyện bộ đội. Trước mắt, cần tập trung nâng cao chất lượng các cuộc diễn tập, hội thao, hội thi; ban hành, triển khai thực hiện chiến lược và các đề án phát triển giáo dục - đào tạo trong quân đội theo phương châm “Chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị”, góp phần xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ.
Thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao; gắn xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh với đổi mới công tác huấn luyện - đào tạo _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn
Năm là, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật.
Để đáp ứng mục tiêu, yêu cầu xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại, Đại hội XIII của Đảng xác định: Phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng, vừa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, vừa góp phần quan trọng phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng và củng cố các tuyến phòng thủ biên giới, biển, đảo(4); Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 26-1-2022, về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo. Theo đó, trong thời gian tới, cần tiếp tục xây dựng, phát triển công nghiệp quốc phòng theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại và lưỡng dụng, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia, đạt trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại; có quy mô tổ chức, cơ chế quản lý và hoạt động phù hợp; phát huy tốt vai trò, trách nhiệm và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các thành phần kinh tế, góp phần nâng cao tiềm lực, sức mạnh quân sự, quốc phòng của đất nước. Gắn phát triển công nghiệp quốc phòng với công nghiệp quốc gia, có cơ cấu hợp lý trong tổng thể nền công nghiệp quốc gia, ưu tiên hướng tới những công nghệ hiện đại, có hiệu quả cao, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang nhân dân.
Để đạt được mục tiêu đề ra, cần sớm hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp quốc phòng dài hạn, trung hạn, phù hợp với điều kiện mới. Ưu tiên phát triển các ngành, sản phẩm công nghiệp cơ bản, có tính lưỡng dụng cao. Đầu tư xây dựng có trọng điểm một số cơ sở công nghiệp quốc phòng có công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiến tới hình thành các tập đoàn, tổ hợp công nghiệp quốc phòng lưỡng dụng, công nghệ cao, có nhiệm vụ nghiên cứu, sản xuất và bảo đảm vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự. Trước mắt, tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng với quy mô, tổ chức, cơ chế quản lý phù hợp, phát huy vai trò, trách nhiệm tự chủ của các cơ sở công nghiệp quốc phòng. Kiện toàn tổ chức ngành kỹ thuật theo hướng “tinh, gọn, mạnh, thống nhất”, phù hợp với tính năng công nghệ của vũ khí, trang bị kỹ thuật và nhiệm vụ của từng cấp; bảo đảm công tác quản lý, chỉ huy, chỉ đạo thông suốt, không chồng chéo. Đổi mới phương thức bảo đảm kỹ thuật đối với vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới, công nghệ cao theo hướng tập trung, thống nhất; đổi mới tư duy sản xuất vật tư kỹ thuật theo hướng mở rộng liên doanh, liên kết, xã hội hóa,... Tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng, nhằm tận dụng, huy động các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ sự nghiệp hiện đại hóa quân đội. Theo đó, cùng với đẩy mạnh hợp tác trên các lĩnh vực, cần thúc đẩy hợp tác trong phát triển công nghiệp quốc phòng, kỹ thuật quân sự, kết hợp với mua sắm vũ khí, khí tài mới, hiện đại và gắn với chuyển giao công nghệ, nhất là các công nghệ mới, hiện đại.
Xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Thực hiện chủ trương này sẽ bảo đảm cho quân đội ta có đủ sức mạnh, hoàn thành tốt vai trò là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trách nhiệm này là của toàn Đảng, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, nhưng trước hết và chủ yếu là của cấp ủy, chỉ huy các cấp cùng cán bộ và chiến sĩ toàn quân./.
PHAN VĂN GIANG
Đại tướng, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí Cộng sản
Thanh Huyền (st)
------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 11, tr. 585
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 157 – 158
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 7, tr. 217
(4) Xem: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 158 - 159