Hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu phấn đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam ngay từ khi thành lập, Đảng luôn hết lòng, hết sức phụng sự nhân dân. Hơn 90 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao. Trong thời gian tới, cần tích cực hiện thực hóa mục tiêu mang lại hạnh phúc cho nhân dân theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong một lần tiếp xúc cử tri các quận Hoàn Kiếm, Ba Đình và Tây Hồ. Ảnh: TTXVN
HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN LÀ GÌ?
Ngày 20/6/2012, với sự nhất trí của 193/193 quốc gia, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc lấy ngày 20/3 hằng năm là Ngày Quốc tế Hạnh phúc nhằm tôn vinh, phát triển và nâng cao giá trị hạnh phúc trên toàn cầu. Theo đó, Ngày Hạnh phúc không chỉ là ngày mang ý nghĩa biểu trưng mà là ngày của hành động tích cực, nỗ lực nhiều hơn để đem lại hạnh phúc cho con người. Tại Hội nghị cao cấp của Liên Hợp Quốc về Hạnh phúc ngày 2/4/2012, Liên Hợp Quốc khuyến cáo coi hạnh phúc là thước đo tiến bộ, công bằng xã hội và là mục tiêu của chính sách công, với mức độ hài lòng của người dân về các chỉ báo cơ bản như thu nhập bình quân theo đầu người, hỗ trợ xã hội, tự do lựa chọn cuộc sống, sự rộng lượng, vị tha của các thành viên; sức khỏe cộng đồng, thái độ và phản ứng tích cực xã hội, tính đa dạng và sự cởi mở của văn hóa, sự đa dạng và biến đổi tích cực của môi trường sinh thái…
Các nghiên cứu về hạnh phúc được tiếp cận từ nhiều hướng khác nhau theo các cặp quan hệ tương tác như lịch sử - văn hóa, kinh tế - xã hội, cá nhân - gia đình, con người - xã hội và có hàng trăm định nghĩa về hạnh phúc nhưng đều có điểm chung là “một xã hội sẽ được đánh giá tốt đẹp khi đem lại hạnh phúc cho nhiều người”(1). Theo đó, hạnh phúc được đo lường qua các chỉ báo như mức độ hài lòng về kinh tế - vật chất; môi trường tự nhiên - xã hội; mức độ hài lòng về quan hệ gia đình - xã hội; về đời sống cá nhân - cộng đồng.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người chiến sĩ cộng sản vĩ đại, hạnh phúc là dâng hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”(2). Người hy sinh hạnh phúc cá nhân để đi tìm hạnh phúc cho mọi người dân Việt Nam. Khi dân tộc hạnh phúc thì Người hạnh phúc.
HẠNH PHÚC CỦA NHÂN DÂN LÀ MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU
Tư tưởng "Lấy dân làm gốc" - nguồn gốc của mọi thành công, từ bao đời nay là quan điểm trị quốc chủ đạo nghìn đời của cha ông ta. Kế thừa tư tưởng đó và thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, trong tư tưởng chỉ đạo cũng như trong thực tiễn hành động, trong toàn bộ quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước, bài học “lấy dân làm gốc”được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa, khẳng định vừa là nền tảng, vừa là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, Người luôn luôn đề cao vai trò làm chủ của nhân dân, quyền lực của dân, luôn tin vào khả năng và sức mạnh của dân, rằng còn dân là còn nước, được lòng dân là được tất cả.
Trải qua thực tiễn cách mạng, Đảng ta đã hun đúc nên truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, lấy phục vụ nhân dân làm mục tiêu, động lực phấn đấu. Ngay trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, khi mới được thành lập Đảng đã đề ra mục tiêu: “A. Về phương diện xã hội thì: a) Dân chúng được tự do tổ chức; b) Nam nữ bình quyền .vv..; c) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa. B. Về phương diện chính trị: a) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. b) Làm cho nước Nam được hoàn toàn độc lập. c) Dựng ra Chính phủ công nông binh. d) Tổ chức ra quân đội công nông”(3).
Rõ ràng, mục tiêu của Đảng luôn gắn liền với nguyện vọng tự do, độc lập dân tộc và hạnh phúc của nhân dân. Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ vào năm 1776 “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(4).
Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trong đó chỉ rõ, Chính phủ phải bằng những biện pháp, hành động quyết liệt thực hiện tốt chính sách diệt giặc đói, diệt giặc dốt và diệt giặc ngoại xâm; giữ vững chính quyền và tổ chức kháng chiến, kiến quốc thành công mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Bởi “Nếu nước nhà độc lập rồi mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì” như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói. Người quan niệm hạnh phúc của nhân dân phải luôn gắn với độc lập dân tộc và ngược lại, đây là 2 phạm trù có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Với sự nỗ lực của Đảng, sự hưởng ứng tích cực của quần chúng nhân dân, hạnh phúc ấm no của nhân dân ngày càng được hoàn thiện. Kể từ khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn lấy hạnh phúc của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu cao cả và xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại hội Đảng, mọi chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều hướng tới hiện thực hóa mục tiêu đó.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục xác định “quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền lợi và lợi ích chính đáng của nhân dân; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(5). Để hướng tới bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân, Đại hội XIII xác định “Thực hiện tốt chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội, an ninh con người, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân”(6) trên cơ sở tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc; xây dựng các cơ chế, chính sách, phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam; phát huy tối đa nhân tố con người - coi con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển.
Phát biểu tại phiên bế mạc Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh, không phải Đại hội xong là coi như xong. Đây chỉ là mở đầu, làm được hay không, có biến Nghị quyết Đại hội thành hiện thực sinh động hay không, có làm ra của cải vật chất, mang lại “giàu có và hạnh phúc” cho nhân dân hay không mới là thành công thực tế của Đại hội.
Theo đó, hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể được thực hiện một cách thực chất khi Đảng, Nhà nước quan tâm lãnh đạo, xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát sự phân hóa giàu nghèo, kiểm soát và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Bảo đảm phát triển hệ thống an sinh xã hội toàn diện, tiến tới bao phủ toàn dân để “không ai bị bỏ lại phía sau”. Thực hiện cải cách hệ thống bảo hiểm xã hội đa tầng dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng, chia sẻ - bền vững. Triển khai, thực hiện chính sách giảm nghèo, tập trung giải quyết nhóm nghèo, vùng nghèo, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, miền, dân tộc đây là cơ sở vững chắc nhất bảo đảm hạnh phúc cho nhân dân.
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định mục tiêu tổng quát: “Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(7). Đồng thời, tại Đại hội XIII của Đảng đã xác định: Đến năm 2025, Việt Nam trở thành nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030 phấn đấu trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 phấn đấu trở thành nước phát triển, thu nhập cao.
Để công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì hạnh phúc của nhân dân đạt kết quả tốt, cần không ngừng chú trọng, thực hiện chất lượng, hiệu quả một số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phải làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh toàn diện. Kiên định, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Đảng phải lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu, động lực để phấn đấu trên cơ sở tăng cường khối đại đoàn kết, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, đề cao lợi ích của nhân dân bảo đảm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Hai là, quán triệt sâu sắc và thực hiện quan điểm “dân là gốc”, thực sự vì hạnh phúc của nhân dân; tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm; mọi chủ trương, chính sách phải xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; thắt chặt mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân; củng cố và ang cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm hạnh phúc lâu dài cho nhân dân.
Ba là, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, cần có quyết tâm cao, nỗ lực lớn, năng động, sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm phát huy mọi nguồn lực, tính ưu việt của chế độ và sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân.
Bốn là, xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược và người đứng đầu đủ phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ. Kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức và lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Năm là, phát huy tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên và hệ thống chính trị giữ vững kỷ cương; bảo đảm hài hòa giữa phát triển kinh tế gắn với tiến bộ, công bằng xã hội; coi trọng nhân tố con người, luôn coi hạnh phúc của nhân dân là mục tiêu, động lực phấn đấu của Đảng… Cụ thể hóa và triển khai thực hiện chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ “6 dám”: dám nghĩ, dám làm, dám nói, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá, sáng tạo và dám đương đầu theo Kết luận số 14-KL/TW Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.
Lý luận và thực tiễn đều cho thấy công cuộc cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa, đất nước Độc lập – Tự do – Hạnh phúc của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sự nghiệp sáng tạo và vĩ đại. Và hơn 90 năm qua, Đảng luôn lấy ấm no, hạnh phúc của nhân dân là thước đo giá trị của Đảng Cộng sản Việt Nam, không gắn bó với nhân dân và không thật sự chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của nhân dân thì Đảng không còn lý do để tồn tại. Đó là sự nhất quán trong tư tưởng và hành động của Đảng ta, trong suy nghĩ và việc làm của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đó cũng là cội nguồn làm nên sức sống, sự trường tồn của Đảng Cộng sản Việt Nam, khi ý Đảng – lòng dân luôn hòa quyện và trở thành sức mạnh vô địch đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn nhằm chia rẽ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng và nhân dân.
Mục tiêu cao cả tối thượng của Đảng Cộng sản Việt Nam là vì Hạnh phúc của nhân dân. Do vậy, mỗi cán bộ đảng viên cần tuyệt đối trung thành với con đường mà Đảng và Bác Hồ kính yêu đã lựa chọn, thực hiện trọn vẹn 4 nhiệm vụ của người đảng viên đã thề khi đứng dưới lá cờ Đảng, cần không ngừng học tập, rèn luyện để có “đôi chân vững và đôi bàn tay sạch” đúng như lời Tổng Bí thư căn dặn. Bảo vệ Đảng là bảo vệ chính mình, nhất là trong tình hình hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản tại Việt Nam. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao tinh thần cách mạng, rèn đức luyện tài, trở thành người cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, không ngừng rèn luyện đạo đức cách mạng: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư như lời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy.
Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: Chúng ta - những người chiến sĩ cách mạng sẽ vì danh dự của Đảng Cộng sản Việt Nam, danh dự của người đảng viên mà sống, chiến đấu, học tập, lao động vì sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời, vì mục tiêu cao cả nhất, nhân văn nhất mà Đảng ta đã lựa chọn đó là: Mang lại Hạnh phúc cho nhân dân./.
Đỗ Thị Thu Hiền - Hoàng Đình Quyết - Hồ Mai Phương
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Lào Cai
Theo Tạp chí Tuyên giáo
Thanh Huyền (st)
--
(1) Lê Ngọc Văn: Hạnh phúc của người Việt Nam, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2019, tr.20.
(2) (4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị Quốc gia, H, 2011, t.4, tr. 272, 1.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3, tr.1.
(5) (6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.I, tr.27-28, 47, 111-112.