Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội. Đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ (KHCN), đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển...

doi ngu tri thuc
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ trí thức trẻ Việt Nam tại Pháp (tháng 3-2018)
_Ảnh: qdnd.vn

Ở Việt Nam, quá trình phát triển cách mạng dân tộc gắn liền với sự phát triển của đội ngũ trí thức. Từ năm 1442, khi danh sĩ Thân Nhân Trung được giao soạn bài văn bia cho bia tiến sĩ đầu tiên dựng tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã nêu bật tầm quan trọng của nhân tài với câu “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia. Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh. Nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn”. Điều đó có nghĩa, sự trường tồn của một quốc gia nằm ở chính tài năng của mỗi người trong quốc gia đó. Đây là những ý niệm rất rõ ràng về hiền tài, về giới trí thức. Trải qua lịch sử phát triển lâu dài, trí thức Việt Nam có những đóng góp quan trọng trong tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, giáo dục, văn hóa, nghệ thuật, quốc phòng, an ninh...

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ năm 1930 đến nay, trí thức Việt Nam luôn là một lực lượng của cách mạng, luôn xung kích đi đầu trên mặt trận KHCN và văn hoá. Trí thức Việt Nam không chỉ là lực lượng sản xuất trực tiếp mà còn đảm nhiệm nhiệm vụ quan trọng là nghiên cứu, tổng kết, khám phá, truyền bá, trao truyền kinh nghiệm cho các thế hệ nối tiếp. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, trí thức Việt Nam, bằng công sức và trí tuệ của mình, cùng với khối liên minh công nông đã góp phần thúc đẩy cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, thu non sông về một mối, thống nhất đất nước. Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là đổi mới đất nước, trí thức Việt Nam góp phần quan trọng trong tiến trình xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), góp phần thay đổi diện mạo xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân. Bước sang thế kỷ XXI, thế kỷ của KHCN, trước xu thế hội nhập quốc tế toàn diện, trí thức Việt Nam ngày càng có vai trò quan trọng đặc biệt. Họ không chỉ là một lực lượng tiêu biểu cho nguồn trí tuệ của dân tộc, mà còn là một động lực trong sự nghiệp phát triển KT-XH, phát triển văn hóa, phát triển con người và tạo nguồn nhân lực có kiến thức. Mặt khác, trí thức còn là nhân tố quyết định đến sự phát triển nhanh chóng và bền vững của nước ta trong quá trình thực hiện CNH, HĐH đất nước.

1. Vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam

Trong công cuộc dựng nước và giữ nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đội ngũ trí thức yêu nước và đưa ra những quan điểm có giá trị lý luận thực tiễn sâu sắc, là kim chỉ nam cho việc xây dựng đội ngũ trí thức hiện nay, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

1.1. Trí thức - lực lượng đặc biệt quan trọng của cách mạng

Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của đội ngũ trí thức đối với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Người cho rằng: “Lực lượng chủ chốt của cách mạng là công nhân và nông dân… Nhưng cách mạng cũng cần có lực lượng của trí thức”[1]. Luận điểm trên của Người đã khẳng định rõ vai trò quan trọng của trí thức trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Liên minh công nhân - nông dân - trí thức phải đề cao tinh thần đoàn kết, tạo thành một khối thống nhất, phát huy thế mạnh của từng chủ thể; từ đó, tạo thành sức mạnh tổng hợp để thực hiện nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phục vụ nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thấy tinh thần cách mạng và trái tim yêu nước nhiệt thành của đội ngũ trí thức Việt Nam, xác định chính trí thức sẽ là những người có khả năng giúp đưa những tư tưởng cách mạng thẩm thấu vào quảng đại quần chúng nhân dân. Điều này giải thích lý do, sau khi về Quảng Châu (Trung Quốc), Người đã tìm đến Tâm tâm xã, một tổ chức yêu nước và tiến bộ của những thanh niên trí thức tiểu tư sản Việt Nam để truyền bá chủ nghĩa Mác, Lê-nin và chuẩn bị lực lượng nòng cốt tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Lời kêu gọi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3-2-1930), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã chỉ rõ vai trò của trí thức đối với sự nghiệp cách mạng, từ đó Người căn dặn: “Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông, Thanh niên, Tân Việt,…” [2].

Khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra sáng kiến thành lập Mặt trận Việt Minh nhằm đoàn kết toàn thể quần chúng nhân dân, trong đó có đội ngũ trí thức, để thực hiện mục tiêu chung là đánh thực dân Pháp, đuổi phát - xít Nhật giành lại độc lập cho đất nước. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, trong lúc này “lao động trí óc có nhiệm vụ rất quan trọng trong sự nghiệp kháng chiến kiến quốc, trong công cuộc hoàn thành dân chủ mới để tiến đến chủ nghĩa xã hội”[3]. Người xác định, trí thức chính là những người có tầm hiểu biết cao hơn so với mặt bằng chung của các tầng lớp, giai cấp khác của dân tộc; vì vậy, trong giai đoạn này, trí thức phải có trách nhiệm đối với việc “Khai dân trí, chấn dân khí”. Đó là yêu cầu cấp bách trong giai đoạn này, bởi Người coi “giặc dốt” cũng là bạn đồng hành của giặc ngoại xâm. Khi miền Bắc Việt Nam được giải phóng và bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, miền Nam vẫn tiếp tục đấu tranh để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tham dự và chỉ đạo nhiều đại hội, hội nghị của trí thức Việt Nam, chỉ ra vị trí, vai trò và những khả năng, cống hiến to lớn của đội ngũ trí thức cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc.

1.2. Trí thức - “vốn liếng” quý báu của dân tộc

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều”[4]. Người dẫn lại lời dạy của V.I. Lê-nin rằng: “Chỉ có những người cách mạng chân chính mới có thể thâu thái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại”[5]; và chính Người, không chỉ thâu thái những điều hiểu biết quý báu của “đời trước để lại”, mà còn bổ sung nhiều tư tưởng có giá trị sâu sắc về xây dựng đội ngũ trí thức cho cách mạng Việt Nam.

Nhiều trí thức đã có những cống hiến vĩ đại cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam, đã đóng góp, cống hiến không chỉ sức lực, trí lực, mà còn cả sinh mệnh của mình cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Nhờ đó, Đảng đã lãnh đạo toàn dân tộc giành được thắng lợi to lớn trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.

Trong bài nói chuyện tại Lễ bế mạc Lớp chỉnh huấn cán bộ trí thức năm 1953, Người nói: “Đảng, Chính phủ và nhân dân ta rất yêu quý trí thức. Yêu quý những trí thức gắn liền lý luận với thực hành, những trí thức thật lòng thật dạ phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến. Yêu quý những trí thức đoàn kết thành một khối với nhân dân, những trí thức của nhân dân”[6].

Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức đề cao vai trò của trí thức và luôn tìm mọi cách phát huy tối đa sức mạnh của lực lượng này để đóng góp vào thành công chung sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Quan điểm của Người về vai trò và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức yêu nước đã có tác dụng to lớn trong việc động viên sức mạnh và trí tuệ toàn dân, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; đồng thời, giúp cho người trí thức hiểu rõ về vị trí và khả năng cách mạng của họ, từ đó, sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc, cho nhân dân.

1.3. Trí thức - lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong công cuộc đổi mới đất nước

 Trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn nhấn mạnh: “Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CHH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững”[7].

Thực tiễn đấu tranh cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ qua đã chứng minh rằng, muốn cách mạng thành công, đất nước phát triển nhanh và bền vững cần có đường lối lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách, pháp luật của Nhà nước phù hợp với từng giai đoạn phát triển. Trong giai đoạn vừa qua, các kết quả nghiên cứu của trí thức khoa học xã hội và nhân văn đã góp phần làm cơ sở khoa học xây dựng các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về đổi mới quản lý, phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH), đảm bảo an ninh - quốc phòng; xác định rõ yêu cầu, nội dung, phương thức bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia gắn với những sự kiện đang diễn ra ở lãnh thổ, lãnh hải và vùng trời; xây dựng thế trận an ninh nhân dân và nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới. Những thành tựu trong nghiên cứu, điều tra điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên và môi trường đã góp phần tạo luận cứ cho việc xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển KT-XH. Ở một số lĩnh vực nghiên cứu cơ bản về khoa học tự nhiên đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ khoa học có khả năng tiếp cận trình độ hiện đại trên thế giới. Hoạt động của đội ngũ trí thức KHCN Việt Nam ngày càng mở rộng và có những đóng góp tích cực, rất nhiều giáo sư người Việt đang công tác và giảng dạy tại các nước phát triển.

Việc ứng dụng công nghệ mới đã giúp chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, tăng giá trị sản xuất, đưa nước ta vào nhóm các nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, cà phê, hạt tiêu, điều, cao su. Cụ thể, các tiến bộ KHCN đã đóng góp khoảng 30 - 40% vào tăng trưởng nông nghiệp tùy theo từng lĩnh vực. Trong đó, quan trọng nhất là khâu chọn tạo giống mới đã thay thế được giống nhập ngoại, từ chỗ phải nhập khẩu 70% giống cây trồng, vật nuôi, hiện nay chỉ còn nhập khẩu dưới 30%. Năm 2021, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu về xuất khẩu nông, lâm, thủy sản với kim ngạch xuất khẩu đạt 48,6 tỷ USD, tăng 14,9% so với năm 2020, trong đó, có 6 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD; thặng dư thương mại toàn ngành 6,44 tỷ USD[8].

Những kỹ sư Việt Nam đã thiết kế, chế tạo thành công nhiều chủng loại sản phẩm, thiết bị đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH, thay thế nhập khẩu với giá thành cạnh tranh, góp phần tăng tỷ lệ nội địa hóa thiết bị, giảm nhập khẩu. Đội ngũ trí thức ở các viện nghiên cứu, tập đoàn, doanh nghiệp cơ khí chế tạo đã có đủ năng lực làm tổng thầu các công trình lớn hàng tỷ USD[9].

Những thành tựu nổi bật trong y học đều xuất phát từ các kết quả nghiên cứu khoa học của đội ngũ trí thức, thúc đẩy sự phát triển ngành y tế, góp phần to lớn vào sự nghiệp bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Vai trò và vị thế nền y tế Việt Nam ở một số lĩnh vực đã được nâng cao ngang tầm các nước trong khu vực và trên thế giới như: ghép tạng, công nghệ tế bào gốc, y học hạt nhân, nội soi can thiệp, điện quang can thiệp, hỗ trợ sinh sản, an toàn truyền máu, hồi sức cấp cứu, vắc-xin và sinh phẩm.

Trong lĩnh vực văn hóa văn nghệ, đội ngũ trí thức đã và đang tích cực tham gia bảo tồn gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa, văn minh của nhân loại. Văn học nghệ thuật đã tiếp tục phát triển, nỗ lực phản ánh chân thực cuộc sống, bước đầu tạo dựng nên một diện mạo mới của văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại; đã có những hiện tượng thu hút công chúng, những tác phẩm lôi cuốn độc giả và ý kiến tranh luận của các nhà nghiên cứu phê bình…; các nhà văn Việt kiều, người Việt ở nước ngoài đã có nhiều tác phẩm được xuất bản tại Việt Nam[10], bước đầu chứng tỏ sự hội nhập của bộ phận văn học người Việt ở nước ngoài vào đời sống văn học trong nước, thể hiện tinh thần hoà hợp dân tộc cũng như xu thế toàn cầu hoá, dân chủ hoá của văn học đương đại Việt Nam. Trong hơn 10 năm, Dự án “Công bố, phổ biến tài sản văn hóa văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam”[11], Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam đã xuất bản được 2.500 trong số gần 4.000 công trình đã nghiên cứu, sưu tầm về văn hóa, văn nghệ dân gian các dân tộc Việt Nam; trong số 2.000 đơn vị được thụ hưởng thành quả của Dự án, có hơn 400 đơn vị là các đồn biên phòng, thư viện các huyện miền núi biên giới, hải đảo, các trường phổ thông dân tộc nội trú...

Trong lĩnh vực quốc phòng - an ninh, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt tham gia xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại và tiến thẳng hiện đại trong một số lĩnh vực; trực tiếp đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự. Trên lĩnh vực khoa học và nghệ thuật quân sự, đội ngũ trí thức đã tập trung nghiên cứu dự báo đối tượng tác chiến; dự báo các hình thái chiến tranh và đối sách của ta; nghệ thuật tác chiến bảo vệ biển đảo, chống tiến công hỏa lực đường không; hoàn thiện lý luận về tổ chức xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh/thành phố; tổ chức xây dựng căn cứ hậu cần chiến lược; xây dựng tiềm lực quốc phòng cho các địa bàn trọng điểm. Trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và công nghệ quân sự đã tập trung nghiên cứu, thiết kế chế tạo, cải tiến hiện đại hóa các loại vũ khí, khí tài, nâng cao uy lực, độ chính xác, khả năng cơ động, phù hợp với điều kiện môi trường và địa bàn tác chiến đặc thù. Trong lĩnh vực y dược quân sự, đã nghiên cứu và ứng dụng các cơ số bảo đảm cho sẵn sàng chiến đấu, bơm tiêm tự tiêm, áo phao cá nhân, cáng gấp phục vụ bộ đội Trường Sa…; trong cấp cứu điều trị bỏng đã phát triển chuyên sâu có phần vượt trội hơn các bệnh viện dân y, tương đương với trình độ các nước có nền y học tiên tiến trong khu vực. Đội ngũ trí thức công an nhân dân đã tập trung nghiên cứu những vấn đề phức tạp và mới do thực tiễn đặt ra như: an ninh phi truyền thống, chiến tranh mạng, tội phạm phi truyền thống, tội phạm xuyên quốc gia, tội phạm công nghệ cao. Các kết quả nghiên cứu góp phần phòng ngừa đấu tranh ngăn chặn có hiệu quả âm mưu và hoạt động tội phạm, điển hình là: các bộ KIT dùng để giám định gen khẳng định tính chất pháp lý trong các vụ án; thiết bị kỹ thuật chèn phá sóng cục bộ cũng như trên diện rộng; vô hiệu hóa các hoạt động khủng bố, kích nổ bằng sóng vô tuyến. Một số lĩnh vực khoa học hình sự như: giám định âm thanh, giám định AND đã đạt trình độ khu vực. Hệ thống thông tin tội phạm của Việt Nam đã kết nối Hệ thống toàn cầu của tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế (INTERPOL), Hiệp hội cảnh sát các nước ASEAN (ASEANAPOL)[12].

2. Giải pháp phát triển đội ngũ trí thức phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc

Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức đã bổ sung những giá trị to lớn vào kho tàng lý luận của Chủ nghĩa Mác, Lê-nin. Những quan điểm của Người về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của người trí thức, đặc biệt là tư tưởng về tổ chức xây dựng một đội ngũ trí thức lớn mạnh tham gia khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức là sự đóng góp lớn vào lý luận về cách mạng vô sản.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra sâu rộng, đặc biệt là sự phát triển của các cuộc cách mạng công nghiệp mới, đòi hỏi đội ngũ trí thức phải vừa có đức, vừa có tài, đáp ứng được yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước. Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta ngày càng quan tâm đến xây dựng đội ngũ trí thức, cũng như đánh giá cao vai trò của đội ngũ trí thức trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Hội nghị Trung ương 7 khóa X, “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CHH, HĐH đất nước”, đã đưa ra năm nhiệm vụ và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức trong giai đoạn hiện nay, cụ thể là: Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức; thực hiện chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức; tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức; đề cao trách nhiệm của trí thức, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động các hội của trí thức; nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Ðảng đối với đội ngũ trí thức.

Đại hội XII của Đảng cũng đã khẳng định: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước. Tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đãi ngộ và tôn vinh xứng đáng những cống hiến của trí thức. Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước. Coi trọng vai trò tư vấn, phản biện, giám định xã hội của các cơ quan nghiên cứu khoa học trong việc hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội”(16).

Đại hội XIII của Đảng đặc biệt quan tâm đến xây dựng đội ngũ trí thức và thu hút nhân tài. Văn kiện Đại hội XIII chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới. Có cơ chế phát huy dân chủ, tự do sáng tạo và đề cao đạo đức, trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học. Ưu tiên đầu tư phát triển hạ tầng, môi trường làm việc, nghiên cứu, đổi mới sáng tạo của trí thức. Trọng dụng, đãi ngộ thỏa đáng đối với nhân tài, các nhà KHCN Việt Nam có trình độ chuyên môn cao ở trong nước và nước ngoài, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, nhà khoa học có khả năng chủ trì các nhiệm vụ KHCN đặc biệt quan trọng. Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”(17).

Trong giai đoạn vừa qua, các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ban hành đã tạo ra những chuyển biến rất tích cực, góp phần tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ trí thức, để giới trí thức có thể đóng góp tốt hơn cho quá trình đổi mới, phát triển đất nước. Thực tế cho thấy, đội ngũ trí thức Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, với tính năng động, sáng tạo ngày càng thể hiện rõ trong mỗi bước tiến triển đi lên của đất nước; như lời của đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng khẳng định: "...Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay...". Điều này được minh chứng qua việc chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam liên tục được cải thiện, nâng cao trong những năm qua.

Thực tế cho thấy, sau gần 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008, đội ngũ trí thức Việt Nam có bước phát triển lớn về quy mô, chất lượng và có mặt ở tất cả các lĩnh vực đời sống, KT-XH. Những năm qua, đội ngũ trí thức trực tiếp tham mưu, góp ý, phản biện vào những quyết sách lớn của Đảng và Nhà nước. Trong xây dựng và hoàn thiện chủ trương, đường lối, chính sách, hoạch định các chiến lược phát triển KT-XH của Đảng và chính quyền các cấp từ Trung ương đến cơ sở đều có sự đóng góp tích cực của đội ngũ trí thức. Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển của đất nước, sự phát triển của đội ngũ trí thức Việt Nam còn gặp nhiều hạn chế. Việt Nam đang thiếu các nhà lãnh đạo quản lý tầm cỡ, các chuyên gia giỏi, các nhà khoa học thực sự tâm huyết với nghề, các công chức trong bộ máy chính quyền các cấp tinh thông nghề nghiệp và đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao về đạo đức công vụ. Cơ chế, chính sách đãi ngộ dành cho đội ngũ trí thức còn dàn trải, chưa đúng trọng tâm, trọng điểm, mức lương và phụ cấp thấp, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu của cuộc sống hiện đại. Cơ chế tuyển dụng, đãi ngộ và thu hút nhân tài của Việt Nam còn nhiều hạn chế và bất cập. Các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với đội ngũ trí thức còn thiếu, chưa đồng bộ hoặc chưa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

Các hạn chế nêu trên khiến những đóng góp của đội ngũ trí thức đối với sự phát triển KT-XH của đất nước còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng to lớn của con người Việt Nam, giá trị Việt Nam. Chúng ta đang rất cần các nhà trí thức lớn, các chuyên gia đầu ngành có thể đảm đương được các công trình, dự án có giá trị để đời. Ngoài ra, lực lượng trí thức nữ, trí thức làm việc ở vùng sâu, vùng xa; trí thức trong doanh nghiệp chỉ chiếm tỷ lệ tương đối nhỏ. Công tác nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ trong các viện nghiên cứu, các trường đại học còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Một bộ phận trí thức Việt Nam còn bị bó hẹp về môi trường tự do sáng tạo, còn thụ động đối với các vấn đề phát triển mà đất nước yêu cầu phải giải quyết.

Trước những yêu cầu, nhiệm vụ mới của thời kỳ CHH, HĐH đất nước, khi thế giới đang tiến hành các cuộc cách mạng công nghiệp mới, đội ngũ trí thức Việt Nam đóng vai trò động lực, đi đầu trong việc nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ KHCN, tiếp nhận và chuyển giao công nghệ ở nhiều lĩnh vực. Để tiếp tục xây dựng và phát triển đội ngũ này, phục vụ sự nghiệp đổi mới, trước hết là góp phần thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng với định hướng năm 2030, tầm nhìn năm 2045 vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, chúng ta cần chú trọng một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

2.1. Đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về xây dựng và phát  đội ngũ trí thức, đẩy mạnh thể chế hóa về các cơ chế, chính sách để phát huy tốt năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức; nâng cao nhận thức chính trị và đề cao vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức với đất nước. Thay đổi nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức đoàn thể các cấp về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của đội ngũ trí thức trong phát triển bền vững, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước. Định kỳ tổ chức các cuộc tiếp xúc, làm việc với trí thức để lắng nghe ý kiến, đối thoại với trí thức về những vấn đề KT-XH quan trọng của địa phương, đơn vị. Tạo môi trường làm việc thực sự phát huy dân chủ và khuyến khích trí thức tự do sáng tạo trong nghiên cứu, sáng tác; công bằng trong học thuật, nghiên cứu, sáng tạo, trong triển khai ứng dụng khoa học...

2.2. Sớm xây dựng, ban hành Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2030, tầm nhìn năm 2045. Trên cơ sở tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 06/8/2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước”, xác định rõ nội hàm khái niệm "trí thức" trong tình hình mới; xây dựng các tiêu chí phân loại "trí thức" theo ngành, lĩnh vực để có các chính sách phù hợp; coi việc xây dựng "trí thức" đầu ngành cấp bách và quan trọng như xây dựng đội ngũ cán bộ cấp chiến lược của Đảng.

Xây dựng Chiến lược Quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức dựa trên yêu cầu của từng ngành, từng lĩnh vực, địa phương phù hợp với Chiến lược phát triển KT-XH của đất nước trong giai đoạn phát triển mới; chú trọng đến những ngành, lĩnh vực đang thiếu, mất cân đối, bất hợp lý về cơ cấu; ưu tiên phát triển đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, trí thức nữ. Tiếp tục thực hiện tốt việc đưa cán bộ, công chức, nhà khoa học trẻ, sinh viên có đạo đức, triển vọng được giải thưởng quốc tế  đi đào tạo ở nước ngoài.

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ trí thức lãnh đạo, quản lý giỏi; đội ngũ trí thức đầu ngành trong lĩnh vực KHCN, giáo dục và đào tạo (GD&ĐT), văn hoá, văn nghệ; đội ngũ trí thức doanh nhân và trí thức trong lực lượng vũ trang.

2.3.Tiếp tục hoàn thiệnthể chế trọng dụng trí thức, người hiền tài

Tiếp tục hoàn thiện môi trường và tạo các điều kiện thuận lợi cho đội ngũ trí thức cống hiến, sáng tạo, có sự quan tâm đặc biệt tới đội ngũ trí thức đang công tác ở miền núi, vùng có điều kiện khó khăn; xây dựng quy chế dân chủ trong hoạt động KHCN, GD&ĐT, văn hóa và văn nghệ; tôn trọng và phát huy tính tự chủ trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tư vấn, phản biện của các nhà khoa học. Đổi mới công tác đánh giá, xét duyệt các chức danh khoa học và các danh hiệu tôn vinh trí thức. Tạo điều kiện bình đẳng cho nữ trí thức trong hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học. Đổi mới công tác đánh giá và nâng mức thưởng đối với các danh hiệu cao quý, các giải thưởng Nhà nước dành cho trí thức.

Tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho việc tổ chức diễn đàn khoa học chuyên nghiệp. Xây dựng cơ chế trao đổi, đối thoại và phản hồi ý kiến phản biện của trí thức; thực hiện tốt việc cung cấp thông tin giúp trí thức kịp thời nắm vững các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và tình hình thực tiễn của đất nước và địa phương.

Đẩy mạnh hợp lý hóa cơ cấu đội ngũ trí thức, đặc biệt chú trọng đào tạo, tập trung phát triển đội ngũ trí thức làm công tác nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu và triển khai, đội ngũ trí thức hoạt động trong các doanh nghiệp, phát triển hệ thống doanh nghiệp KHCN để tạo động lực mạnh mẽ cho hoạt động đổi mới sáng tạo. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức phục vụ chiến lược phát triển KT-XH, đáp ứng được yêu cầu của các cuộc CMCN mới.

Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy theo hướng hiện đại, cập nhật, gắn lý thuyết với thực hành, hình thành tư duy độc lập, sáng tạo cho người học. Thực hiện tốt các biện pháp gắn đào tạo với nhu cầu của người học và nhu cầu của xã hội; gắn đào tạo đại học và sau đại học với nghiên cứu khoa học, với sản xuất kinh doanh; tăng cường vai trò của các tổ chức kiểm định độc lập trong kiểm định chất lượng đào tạo; đẩy mạnh phát triển các trường đại học theo mô hình các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới; phấn đấu đến năm 2030, nền giáo dục Việt Nam đạt trình độ tiên tiến trong khu vực, đến năm 2045 đạt trình độ quốc tế.

Xây dựng cơ chế đột phá trong phát hiện, trọng dụng và đãi ngộ trí thức tài năng, nhà khoa học trẻ; xóa bỏ tư duy coi trọng bằng cấp, thâm niên công tác. Xây dựng, thực hiện cơ chế, chính sách trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng theo mức độ đóng góp và năng lực thực tiễn để trí thức thực sự yên tâm nghiên cứu, sáng tạo khoa học trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Xây dựng cơ chế đặc thù về đầu tư, đãi ngộ đối với trí thức theo nhiệm vụ và sản phẩm sáng tạo, phù hợp với từng đối tượng, bảo đảm đời sống của trí thức phải cao hơn mức chung của xã hội.

Thực hiện đúng và đầy đủ chủ trương phân cấp và quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KHCN, các trường đại học trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo và các chức danh khoa học trên cơ sở các tiêu chuẩn của Nhà nước; trong việc người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị được sử dụng quỹ tiền lương và kinh phí chi thường xuyên được giao hằng năm để đặt hàng chuyên gia, nhà khoa học, người có tài năng đặc biệt thực hiện nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức, đơn vị và quyết định mức chi trả thu nhập tương xứng với nhiệm vụ được giao.

2.4. Đẩy mạnh huy động và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư cho xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức

Huy động mạnh mẽ các nguồn lực trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển đội ngũ trí thức, ưu tiên cân đối nguồn vốn đầu tư phát triển về hạ tầng, môi trường làm việc phục vụ các hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức. Tập trung nguồn lực cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ trí thức, văn nghệ sỹ, chuyên gia đầu ngành.

Tiếp tục hoàn thiện các chính sách, cơ chế tài chính nhằm khuyến khích và thu hút các nguồn lực xã hội; khuyến khích khu vực tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư cho các hoạt động nghiên cứu KHCN, văn hóa, văn nghệ, GD&ĐT... Xây dựng cơ chế, chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế và phí đối với các cơ sở nghiên cứu, đào tạo và thiết chế văn hóa do khu vực tư nhân đầu tư, đặc biệt là ở vùng còn khó khăn.

Sớm đầu tư xây dựng các tổ hợp khoa học - sản xuất, các trung tâm văn hóa hiện đại cho các vùng KT-XH của cả nước nhằm thúc đẩy nghiên cứu, hấp thụ, chuyển giao và truyền bá tri thức phục vụ phát triển đất nước.

2.5. Nâng cao trách nhiệm và đóng góp của đội ngũ trí thức, kiện toànhệ thống tổ chức của các hội trí thứcđáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong thời kỳ mới

Tăng cường sinh hoạt tư tưởng đối với trí thức, đặc biệt là trí thức trẻ, sinh viên; nâng cao ý thức chính trị và trách nhiệm, phát huy vai trò tiên phong và dẫn dắt quần chúng của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí. Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ kế cận. Đổi mới nội dung học tập chính trị, tư tưởng với các hình thức phù hợp và đa dạng; tăng cường rèn luyện, phấn đấu, bồi đắp, phát huy những phẩm chất tốt đẹp như lòng yêu nước, tính tích cực xã hội, tính nhân văn, đạo đức và lối sống lành mạnh nhằm nâng cao trách nhiệm của đội ngũ trí thức. Bản thân đội ngũ trí thức cần nâng cao trách nhiệm, nghĩa vụ và đạo đức nghề nghiệp. Không ngừng học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, có chí khí và hoài bão, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khắc phục hiện tượng suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận trí thức hiện nay.

Đổi mới mạnh mẽ cơ cấu tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức thành viên Liên hiệp các Hội Khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam... theo hướng tinh gọn, hiệu quả, không hành chính hóa.

Tăng cường, nâng cao hiệu quả các hoạt động tư vấn, phản biện, giám định xã hội và hoạt động tuyên truyền phổ biến kiến thức. Xây dựng các cơ chế, chính sách để các hội trí thức được thực hiện các dịch vụ công, cấp chứng chỉ hành nghề, giám sát các hoạt động nghề nghiệp.

Tạo cơ hội để trí thức tự nguyện đi đầu trong việc truyền bá những tri thức tiến bộ trong cộng đồng, áp dụng có hiệu quả những tiến bộ đó vào sản xuất và đời sống, góp phần thiết thực nâng cao dân trí. Có cơ chế, chính sách huy động trí thức, đặc biệt là trí thức đầu ngành, trực tiếp chăm lo và thực hiện việc đào tạo đội ngũ kế cận./.

Nguyễn Văn Phong,

 Phó Bí thư Thành ủy Hà Nội

Theo Tạp chí Tuyên giáo

Thanh Huyền (st)

------------------------------------------

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 10, tr. 376.

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 3, tr. 3.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 7, tr. 72.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 275.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 6, tr. 357.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011,  t. 8, tr. 297.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.80-81.

[8] Năm 2021: lâm sản 15,96 tỷ USD, tăng 20,7%; thủy sản trên 8,89 tỷ USD, tăng 5,6%; chăn nuôi 434 triệu USD, tăng 2,1%; 10 nhóm mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD (thêm 1 mặt hàng là thức ăn gia súc và nguyên liệu), trong đó có 6 mặt hàng có kim ngạch trên 3 tỷ USD (gỗ và sản phẩm gỗ đạt trên 14,81 tỷ USD; tôm trên 3,85 tỷ USD; rau quả trên 3,52 tỷ USD; hạt điều 3,66 tỷ USD; gạo trên 3,27 tỷ USD; cao su trên 3,31 tỷ USD).

[9]Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (LILAMA) đã làm tổng thầu EPC các công trình điện lớn như: Nhà máy Điện khí hỗn hợp Cà Mau I, Cà Mau II; Nhà máy Điện khí hỗn hợp Nhơn Trạch I, Nhơn Trạch II; tổng thầu Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1; Nhà máy Nhiệt điện Sông Hậu 1. Tổng công ty Sông Đà đứng đầu tổ hợp liên danh xây lắp các công trình thủy điện lớn như: Sơn La, Lai Châu; Công ty PV Shipyard là tổng thầu IPC chế tạo giàn khoan.

[10]Lực lượng sáng tác này thuộc nhiều lĩnh vực: Thiếu tướng, Giáo sư, Viện sĩ Trần Đại Nghĩa - tấm gương về học tập, hoạt động cách mạng và những đóng góp xuất sắc của ông với quê hương và cách mạng Việt Nam, đặc biệt là những đóng góp trong lĩnh vực công nghiệp quốc phòng, khoa học - kỹ thuật quân sự, nghiên cứu khoa học và đào tạo đội ngũ cán bộ tri thức... Giáo sư Cao Huy Thuần từng dạy Đại học Huế trước năm 1975, sau đó nhiều năm là giáo sư Đại học Pháp. Ông đã cho in hàng chục tác phẩm về triết học, tôn giáo, đạo đức, văn học tại các nhà xuất bản trong nước. Cũng từ Pháp có các cây bút nữ Việt Linh, Thuận. Ở Đức có Nguyễn Văn Thọ, Hiên Bonnin Trần; Ba Lan có Trần Quốc Quân. Ở Na Uy có cây bút nữ cao tuổi Lệ Tân Sitek. Từ thành phố Toronto ở Canada có sự góp mặt của Nguyễn Thu Hoài. Và từ Hoa Kỳ, nhiều nhà văn cũng đã giới thiệu tác phẩm của mình với bạn đọc trong nước: Nguyễn Mộng Giác, Phan Việt....

[11] Quyết định số 1905/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 24 tháng 12 năm 2008

[12] Theo Báo cáo số 679-BC/QUTW, ngày 25-6-2018 của Bộ Quốc phòng; Báo cáo số 183-BC/ĐUCA, ngày 07-5-2018 của Bộ Công an.

Bài viết khác: