Dân tộc Việt Nam có những tư tưởng lớn, những truyền thống hết sức quý báu. Đó là tinh thần độc lập dân tộc, là lòng yêu nước, thương người... Cách đây 700 năm, Vua Trần Thái Tông nói "Lấy ý muốn của thiên hạ (dân) làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của mình". Bác Hồ nói: "Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác". Khơi dậy những giá trị truyền thống, phát huy cao độ sức mạnh dân tộc trong thời kỳ cách mạng mới, nhằm xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, đưa nước ta "trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa" () vào năm 2045 - kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là những ý kiến gợi mở và nội dung loạt bài của tác giả Nguyễn Sĩ Đại mà chúng tôi gửi đến bạn đọc.

doan ket dan toc
Khối đại đoàn kết các dân tộc, tôn giáo là cội nguồn sức mạnh, giúp đất nước ta vượt qua mọi khó khăn. Ảnh: MỸ HÀ

Nước ta là một nước đa dân tộc, đa tôn giáo nhưng tất cả đều thống nhất chặt chẽ trong một khối đại đoàn kết toàn dân; từ đó làm nên sức mạnh vô song để vượt qua mọi thử thách gian nan trong quá trình dựng nước và giữ nước.

Vì sao lại có sự đoàn kết, tương thân tương ái ấy?

Theo chứng tích của khảo cổ học, người Việt đã sinh sống trên mảnh đất này từ hàng vạn năm, trải qua các nền văn hóa phát triển rực rỡ như văn hóa Tràng An (Ninh Bình) khoảng 25000 năm trước; văn hóa Sơn Vi (Phú Thọ) 23000 năm, văn hóa Hòa Bình 15000 năm, văn hóa Đông Sơn 4000 năm, văn hóa Sa Huỳnh (Quảng Ngãi) và văn hóa Óc Eo (An Giang) hơn 2000 năm trước… Trong quá trình đó, cùng với người bản địa, đã có những cuộc di dân cơ học từ bốn phương quây tụ ở mảnh đất đầy nắng ấm và biển sáng, mưa gió và lòng người hòa thuận này, để trở thành Tổ quốc, thành đại gia đình Việt Nam.

Trong mọi danh xưng, dù là Tổ quốc, quốc gia, hay thân mật hơn là "làng nước", người Việt bao giờ cũng tôn thờ cộng đồng như một giá trị thiêng liêng. Tính cộng đồng, sự cần thiết của cộng đồng ăn sâu vào tâm thức, vào lời ăn tiếng nói hằng ngày. Từ việc đẵn một cây gỗ to về làm nhà đến đuổi con hổ dữ… đều cần đến anh em, làng xóm. Lúa nước là phương thức sản xuất chủ yếu, cần đến hình thức đổi công, cần đến nguồn nước tưới tiêu chung, lấy nước qua ruộng của nhau, mượn trâu bò, nông cụ, thăm đồng hộ nhau…, nên tạo ra sự cố kết chặt chẽ, lâu dài.

Một dân tộc sinh ra và gắn kết với nhau, không phải chỉ bởi sống cùng nhau trên một vùng đất, mà còn phải dựa trên một nền tảng tinh thần. Người Việt đã sáng tạo ra một truyền thuyết, một đức tin đẹp đẽ: Truyền thuyết về Mẹ Âu Cơ, về Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ, sinh được một bọc trăm trứng, trăm trứng nở ra trăm người con. Năm mươi người con theo cha xuống biển, năm mươi người con theo mẹ lên rừng… Không người Việt nào không nhận mình là "con Rồng cháu Tiên".

Sau màu sắc huyền thoại ấy là một thực tế, một khát vọng: Từ muôn đời nay, người Việt - dù là dân tộc nào, sống ở miền ngược cũng như miền xuôi - đều là anh em một nhà, đều là ruột thịt. Chỉ tiếng Việt, người Việt mới có thân yêu hai tiếng "đồng bào", nghĩa là cùng một bọc. Từ bao đời nay, tình thương yêu đùm bọc ấy được truyền dạy, củng cố: Anh em như thể chân tay/ Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần; Chị ngã em nâng; Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì…

Trong quá trình hình thành cộng đồng 54 dân tộc ở Việt Nam, không chỉ có người bản địa, mà người Việt cũng đã tiếp thu các tộc người từ nơi khác đến. Xa gần đến đều được đùm bọc, sẻ chia. Ở Cẩm Xuyên (Hà Tĩnh) có tên làng Nhượng Bạn, thể hiện sự bao dung, nhường đất ở, giúp đỡ ban đầu của người cũ dành cho người mới đến chứ không phải "ma cũ bắt nạt ma mới". Thương người sống, thương cả ma. Đến như người thua trận như quan quân Sầm Nghi Đống còn được lập đền thờ thì thấy lòng nhân ái, sự bao dung của dân ta lớn đến mức nào. Văn chiêu hồn của Nguyễn Du viết Thương thay thập loại chúng sinh/ Hồn đơn phách chiếc lênh đênh quê người. Ở chiều ngược lại, những người mới đến như họ Vũ, họ Trần, họ Hồ, như các tộc H’Mông, Dao, Ê Đê, Ba Na… đều đóng góp cho cộng đồng những chất lượng mới. Và tất cả cùng bảo ban nhau Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn. "Giàn" ấy chính là làng, là nước, là Tổ quốc.

Chúng tôi thấy số lượng ca dao, tục ngữ của mọi dân tộc anh em đều dành sự ưu trội cho kinh nghiệm sản xuất, cho tình yêu lứa đôi và đặc biệt là không nguôi nói về tinh thần đoàn kết, sức mạnh của sự đoàn kết. Nếu người Kinh nói Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi cao thì người Tày nói Tiền bạc như đất cỏ/ Tình cảm anh em quý hơn nghìn vàng; người Thái nói Vỗ tay cần nhiều ngón/ Bàn kỹ cần nhiều người; Bản mạnh vì sức dân/ Mường giàu vì nhiều người họp lại; người Ê Đê nói Trồng cây phải hỏi chú bác/ Đừng như con hươu trong rừng/ Với cặp sừng giậm chân một mình…

Việt Nam là một đất nước tươi đẹp, là "thiên đường ẩm thực", là nơi đáng sống, đặc biệt là nơi có những giá trị văn minh, văn hóa mà nhân loại vẫn hằng khát vọng, nhất là tình người sâu sắc trong gia đình, trong cộng đồng. Nền văn hiến Việt Nam là một nền văn hiến thống nhất, được bồi đắp không ngừng qua mọi thời kỳ lịch sử, là một nền văn hiến không chỉ nhận thức thế giới, mà còn kiến tạo nên một thế giới tình thương. Cá nhân, gia đình, dòng họ, cộng đồng làng xã, đất nước là một thể thống nhất, không thể tách rời. Người Việt từ lâu đã hiểu rằng: cả cộng đồng đều chăm lo cho sự phát triển của cá nhân (thí dụ: cả nhà, cả làng đều dồn sức cho một người có khả năng học tập, thành đạt; cả mấy làng đều nuôi Thánh Gióng). Từ trong máu thịt của mỗi người, đều nuôi chí vì nhà, vì nước; đặt lợi ích chung trên lợi ích riêng và không coi đấy là một sự hy sinh, thiệt thòi mà chính là niềm hạnh phúc.

Nghĩa tình-giá trị nổi bật làm nên sức mạnh của dân tộc

Sâu xa và cảm động biết bao, khi mới giành chính quyền, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Hồ Chí Minh đã viết bài kêu gọi "Sẻ cơm nhường áo" đăng trên Báo Cứu Quốc số ra ngày 28/9/1945: "Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo" (Hồ Chí Minh, toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H. 2011, tr.33). Tại buổi khai mạc lễ phát động phong trào cứu đói được tổ chức tại Nhà hát Lớn Hà Nội, Bác Hồ đã đem phần gạo nhịn ăn của mình đóng góp trước tiên.

Bạn đọc trẻ hiện nay còn nhớ, trong đại dịch Covid-19, có bệnh nhân số 91, đó là phi công người Anh Stephen bị mắc Covid-19 khiến phổi bị xơ hóa. Cùng với sự tận tụy, tài giỏi của cán bộ y tế, Chính phủ và rất, rất nhiều người Việt Nam lo lắng cho ông, hàng chục người đã tự nguyện hiến phổi của mình một cách vô tư, không một chút vụ lợi. Khi ra viện, ông xúc động nói: "Nếu ở một nơi nào khác trên Trái đất này, hẳn tôi đã chết. Tôi thấy mình vô cùng may mắn được chữa trị ở Việt Nam. Tự đáy lòng, tôi vô cùng biết ơn Việt Nam"…

Thử vận dụng cách nhìn, lối suy nghĩ như trong bộ sử thi đồ sộ "Đẻ đất, đẻ nước" thì một dân tộc giàu nhân ái, lấy yêu thương con người làm lẽ sống, đẻ ra cái gì? Đẻ ra nghệ thuật của yêu thương.

Nghệ thuật của yêu thương đẻ ra những con người biết yêu thương, đùm bọc nhau nhiều hơn nữa; biết gìn giữ lấy cội nguồn; thiêng liêng quê hương nơi chôn rau, cắt rốn; thiêng liêng mồ mả tổ tiên; thiêng liêng cháu con… Và như thế đẻ ra sự thiêng liêng Tổ quốc, thiêng liêng nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc; nhu cầu tự thân phấn đấu xây dựng cuộc sống tương lai ngày mai phải tốt đẹp hơn hôm nay để cháu con được hưởng. Dòng họ nào, dân tộc nào trong đại gia đình dân tộc Việt Nam cũng sắt son một tâm nguyện, một ý chí: Ông cha khai cơ, mở nghiệp, con cháu gìn giữ, đắp bồi; nhắc nhau trồng xanh cây đức, cây nhân, cây nghĩa…

Và như vậy, đẻ ra sức mạnh vô song, đẻ ra sự phát triển sáng tươi, bền vững.

(Còn nữa)

(★) Theo Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t1, tr111-112.

NGUYỄN SĨ ĐẠI

Theo Báo Nhân Dân

Thanh Huyền (st)

Bài viết khác: