Tư tưởng, tình cảm, tấm lòng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương bệnh binh, liệt sĩ; với gia đình các thương bệnh binh, liệt sĩ và những người có công với đất nước không chỉ thấm đẫm tính nhân văn, thấm nhuần đạo lý truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mà còn hiển hiện một tình thương yêu bao la, nhân ái của Người!
Ngày 2/9/1955, Bác Hồ cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tới đặt vòng hoa viếng các liệt sĩ tại Nghĩa trang Mai Dịch, Hà Nội. Ảnh: Bảo tàng Hồ Chí Minh.
Nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn!
Một trong những vấn đề mà sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, trăn trở đó là sự hy sinh, cống hiến tuổi thanh xuân của các chiến sĩ, thương binh, bệnh binh, liệt sĩ cho độc lập, tự do của Tổ quốc, hạnh phúc của Nhân dân. Có một đất nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc như hôm nay một phần chính là nhờ những người con dũng cảm đã đặt lợi ích của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết; đã xả thân vì nghĩa lớn. Ghi nhận sự hy sinh cao cả đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Máu đào của các liệt sĩ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt qua tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”[1].
Vì thế, giữa bộn bề công việc của những ngày đầu nước nhà mới giành được độc lập, Người đã tri ân thân nhân các liệt sĩ và bày tỏ tấm lòng mình khi phát biểu: “Vì muốn thay mặt Tổ quốc, toàn thể đồng bào và Chính phủ, cảm ơn những chiến sĩ đã hy sinh tính mệnh cho nền Tự do, Độc lập và Thống nhất của nước nhà, hoặc trong thời kỳ cách mệnh, hoặc trong thời kỳ kháng chiến. Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sĩ đó và tôi nhận các con liệt sĩ làm con nuôi của tôi”[2]. Đồng thời, bày tỏ tình cảm, lòng biết ơn sâu sắc của nhân dân đối với những người bị thương tật, những người đã không tiếc máu xương, cống hiến hết mình cho Tổ quốc bằng những việc làm thiết thực như tham gia “Hội giúp binh sĩ bị nạn” (sau đổi là “Hội giúp binh sĩ bị thương”); tặng chiếc áo rét của mình cho binh sĩ trong cuộc vận động “Mùa đông binh sĩ”; đề nghị các ban, ngành, đoàn thể Trung ương lấy ngày 27/7/1947 làm Ngày Thương binh toàn quốc đầu tiên (năm 1955 đổi thành Ngày Thương binh - Liệt sĩ), ký Sắc lệnh số 20/SL về chế độ hưu bổng thương tật đối với thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng (16/2/1947); ký Sắc lệnh số 613/SLĐB tổ chức Bộ thương binh và Cựu binh, (tiền thân của Bộ Lao động - Thương binh - Xã hội) ngày 3/10/1947…
Tình cảm, tấm lòng, lời kêu gọi đồng bào cả nước thể hiện tình thương yêu, trách nhiệm và bổn phận của mình đối với những thương bệnh binh, liệt sĩ chính là tâm nguyện của Người trong bức Thư gửi Ban Thường trực của Ban tổ chức “Ngày thương binh toàn quốc” ngày 17/7/1947. Trong đó, Người không chỉ khẳng định rằng, “đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp, cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đã chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”[3], mà còn “xin xung phong gửi một chiếc áo lót lụa của chị em phụ nữ đã biếu tôi, một tháng lương của tôi, một bữa ăn của tôi, và của các nhân viên tại Phủ Chủ tịch, cộng là một nghìn một trăm hai mươi bảy đồng (1.127đ.00)”[4]…
Từ sau năm 1947, cứ đến dịp kỷ niệm Ngày 27/7 là Người lại gửi thư thăm hỏi, tặng quà, đi thăm các thương bệnh binh, gia đình liệt sĩ, viếng các anh hùng liệt sĩ ở nghĩa trang liệt sĩ. Những bức thư của Người nhân dịp 27/7 năm 1948, 1951, 1952, 1954,1956, 1957, 1959…; những món quà thiết yếu (quần áo, khăn mặt, vải, thuốc men, chăn...), tiền lương tháng, tiền tiết kiệm của Người dành tặng các thương binh không chỉ làm sâu sắc hơn, cao cả hơn ý nghĩa của Ngày Thương binh - Liệt sĩ, bởi vì đó là một dịp để “tỏ lòng hiếu nghĩa bác ái”, “tỏ ý yêu mến thương binh”, mà còn làm cho “kế sách” giúp thương binh của Người, với nội dung cụ thể như “chính quyền, đồng bào và các đoàn thể Nhân dân trong mỗi xã phải tuỳ theo cố gắng và khả năng chung của mỗi xã mà đón một số anh em thương binh (…). Với lòng hăng hái và cố gắng của đồng bào, với sự nỗ lực của cán bộ chính quyền và đoàn thể các địa phương, tôi tin chắc rằng công việc đón anh em thương binh về làng sẽ có kết quả tốt đẹp”[5] trở nên sinh động trong thực tiễn; trở thành một phong trào được triển khai sâu rộng, có ý nghĩa chính trị, tinh thần lớn lao.
Tiếp tục thực hiện tốt chính sách đối với người có công
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những chỉ dẫn của Người trong bản Di chúc để lại cho muôn đời sau, trong đó có lời căn dặn: “Công việc toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta phải ra sức làm là mau chóng hàn gắn vết thương nghiêm trọng do đế quốc Mỹ gây ra trong cuộc chiến tranh xâm lược dã man (…). Đầu tiên đối với con người. Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong…). Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn, chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ ở mỗi địa phương (thành phố, làng xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho Nhân dân ta. Đối với cha mẹ, vợ con (của thương binh và liệt sĩ) mà thiếu sức lao động và túng thiếu, thì chính quyền địa phương (nếu ở nông thôn thì chính quyền xã cùng hợp tác xã nông nghiệp) phải giúp đỡ cho họ có công ăn việc làm thích hợp, quyết không để họ bị đói rét”[6] (những người có công) đã được Đảng, Nhà nước ta quán triệt, triển khai, nhất là sau khi miền Nam được giải phóng, Tổ quốc thống nhất và cùng đi lên chủ nghĩa xã hội.
Cùng với thời gian, tư tưởng, tình cảm, sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như những việc Người đã làm, những biện pháp thiết thực Người đề nghị để thực hiện tốt ngày càng tốt hơn chính sách đối với người có công với cách mạng không chỉ thể hiện rõ trách nhiệm, nghĩa vụ, đạo lý “sống ở đời và làm người”, mà còn thu hút sự quan tâm, tham gia của mọi người, mọi ngành; từ Trung ương đến địa phương. Từ những chỉ dẫn của Người, từ những việc thiết thực Người đã khởi xướng và thực hành, Đảng và Nhà nước đã vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thương binh, liệt sĩ, về chính sách đối với người có công bằng nhiều chương trình, phong trào cụ thể, thiết thực. Đó chính là “huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công. Giải quyết dứt điểm các tồn đọng về chính sách người có công, đặc biệt là người tham gia hoạt động bí mật, lực lượng vũ trang, thanh niên xung phong các thời kỳ cách mạng và kháng chiến”[7] và coi đó vừa là trách nhiệm của Nhà nước, của hệ thống chính trị, vừa là trách nhiệm của toàn dân. Đó cũng chính là “hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú. Cân đối ngân sách để tiếp tục thực hiện việc nâng mức trợ cấp xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công, giải quyết căn bản chính sách đối với người có công; nâng cấp các công trình “đền ơn đáp nghĩa””[8] và “thực hiện tốt chính sách ưu đãi người có công; đẩy mạnh các hoạt động đền ơn đáp nghĩa. Tiếp tục cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người có công; bảo đảm chế độ ưu đãi người và gia đình người có công phù hợp với xu hướng tăng trưởng kinh tế, tiến bộ và công bằng xã hội”[9] theo đúng tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, góp phần bảo đảm cho những người có công với cách mạng có đời sống vật chất và tinh thần ngày càng tốt hơn…
Có thể nói, chiến tranh đã lùi xa, song chính sách đối với người có công luôn được quan tâm, được bổ sung và thực hiện đồng bộ; công tác đối với người có công luôn được triển khai với nhiều hoạt động thiết thực, phù hợp điều kiện của từng địa phương, cơ quan, đơn vị. Trong đó, có việc xác nhận và quản lý chi trả chế độ theo Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng; đẩy mạnh việc tìm kiếm, quy tập mộ liệt sĩ; huy động sự góp sức tự nguyện của mọi người, mọi ngành, mọi cấp để xã hội hóa công tác “Đền ơn đáp nghĩa”; thực hiện Chỉ thị số 02/CT-TTg ngày 25/1/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng và Chỉ thị số 368-CT/QUTW ngày 12/6/2016 của Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về việc tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác chính sách đối với quân đội và hậu phương quân đội giai đoạn 2016-2020… Trong đó, có những hoạt động quét dọn vệ sinh, chăm sóc, lau dọn và thắp hương, nến, dâng hoa bày tỏ lòng thành kính tưởng nhớ, biết ơn các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc tại các đền thờ, nghĩa trang liệt sĩ ở khắp mọi miền Tổ quốc; đến thăm hỏi, tặng quà các gia đình các thương bệnh binh, liệt sĩ, người có công với cách mạng và tạo điều kiện cho con em các gia đình có công với cách mạng được thụ hưởng những ưu đãi trong học tập, việc làm…; tổ chức khám bệnh, phát thuốc (thuốc bổ, thuốc điều trị bệnh cao huyết áp, hạ huyết áp, đau nhức xương khớp, tim mạch,…) cho thân nhân các gia đình chính sách, cho mẹ Việt Nam Anh hùng…
Những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với người có công; việc thực hiện chính sách đối với người có công với cách mạng không chỉ được tiến hành vào dịp 27/7 hằng năm, mà thực tế còn được triển khai trong những dịp lễ, tết, những ngày kỷ niệm của đất nước, của các bộ, ban, ngành. Chính sách ưu đãi người có công với cách mạng không chỉ chiếm vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách an sinh xã hội của đất nước, mà đó còn là một loại chính sách đặc biệt, thực hiện cho những đối tượng đặc biệt; không chỉ thể hiện sự quan tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước đối với người có công với cách mạng, mà còn làm cho truyền thống tốt đẹp, đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa” của dân tộc được tiếp nối, bồi đắp, góp phần nhân nguồn sức mạnh đại đoàn kết của toàn dân tộc trên hành trình xây dựng chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.401
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.4, tr.486
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.204
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.5, tr.204-205
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.7, tr.135-136
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.616
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2011, tr.229 - 230
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t.I, tr.148-149
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội 2021, t.I, tr.270
Văn Thị Thanh Mai
Theo Hochiminh.vn
Thanh Huyền (st)