Bà Nguyễn Thị Thanh (1884-1954) biệt danh Bạch Liên, là chị ruột của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà tham gia tích cực trong tổ chức chống thực dân Pháp của Đội Quyên, Đội Phấn, cuối năm 1910 bị Pháp bắt, đến đầu 1911 được tha. Năm 1918 lại bị Pháp bắt, bị án khổ sai 9 năm ở Quảng Ngãi do hoạt động yêu nước. Năm 1922 bị an trí ở Huế. Năm 1940 về huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Cuối năm 1946, bà ra Hà Nội gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hồi đó chúng tôi đang học lớp Mật mã do Bộ Tổng Tham mưu Quân ủy hội mở. Chúng tôi ở đường Ôn Như Hầu, Hà Nội (nay là đường Nguyễn Gia Thiều).

Sáng chủ nhật 27-10-1946, chúng tôi được bà Thanh (chị ruột Bác Hồ) đến đơn vị gọi anh Nguyễn Sinh Thọ và tôi ra bảo: “Bà lần trước ra Hà Nội nhưng ông Hồ đi Pháp chưa về, lần này bà mới ra hôm qua, đi tàu hỏa cũng mệt, nhưng hôm nay phải vào gặp cho được ông Hồ, vì biết ông cũng bận lắm nhưng bà sốt ruột lắm, bà cho hai cháu cùng đi để được vinh dự gặp ông Hồ và để nghe ông Hồ chỉ bảo cho nên người”. Nói đoạn bà đưa anh Thọ cầm một chai tương, đưa cho tôi cầm một đôi gà và bảo: “Đây là gà của bà nuôi, và tương ở quê làm mà hồi nhỏ ông Hồ rất thích, bà cháu ta mang vào biếu ông Hồ, hai cháu cầm cẩn thận”. Chúng tôi vô cùng sung sướng, quên cả xin phép đồng chí phụ trách đơn vị.

Ba bà cháu đi bộ lên Bắc Bộ Phủ, nơi làm việc của Bác Hồ (hiện nay là Nhà khách chính phủ ở đường Ngô Quyền, Hà Nội). Đi ra đường Phố Huế để ngược lên Bắc Bộ Phủ, tôi vô ý đánh sổng con gà. Tôi, anh Thọ và nhờ một số bà con đi đường đuổi mãi mới bắt lại được. Bà Thanh hơi bực và trách tôi: “Thời giờ đã ít, mất công đuổi gà, xách con gà không nổi cũng đòi đi đánh Tây”. Tôi vừa sợ bà vừa xấu hổ, vội vàng trói chặt gà và cẩn thận xách đi.

Đến gần Bờ Hồ, bà Thanh bảo chúng tôi, nhìn đâu thấy bán hoa huệ để bà mua một bó. Ba bà cháu vừa đi vừa ngó tìm, nhưng không thấy đâu có bán thứ hoa đó. Bà Thanh bảo: “Gắng tìm cho bằng được, các cháu chưa biết đâu, đây là một kỷ niệm thân thương và thiêng liêng đối với ông Hồ”… Tìm mãi chẳng thấy, bà Thanh tuy có áy náy nhưng đành thôi, để đi lên Bắc Bộ Phủ, kẻo đã gần trưa. Dọc đường, chúng tôi có hỏi bà Thanh về sự tích này. Bà cho chúng tôi biết: “Lúc cụ Hoàng Thị Loan mất ở Huế, chỉ có mặt ông Hồ và ông Xin mới mấy tháng tuổi (ông Xin là con út của hai cụ, là em ruột kề ông Hồ, ông Xin mất khi còn rất bé). Còn cụ Phó bảng, ông Khiêm hồi đó ở Thanh Hóa, bà thì về ở quê Nam Đàn. Trong cảnh đau thương lớn quá, mẹ mất lúc em còn quá nhỏ, cha, chị, anh đều ở xa, mọi việc chôn cất bà cụ Loan, ông Hồ đều nhờ vào bà con ở Huế. Trong những ngày tang tóc, ngoài mùi hương trầm hương thẻ, những bó hoa huệ màu trắng tinh tỏa hương thoang thoảng, được bà con đưa tới phúng viếng và thờ bà cụ Loan cho đến cả mấy ngày Tết, để lại cho ông Hồ một ấn tượng thiêng liêng sâu đậm về người mẹ kính yêu của mình. Sau này khi gia đình sum họp, ông Hồ kể lại cho gia đình nghe như vậy, và cứ mỗi lần thấy bình hoa huệ được để nơi thờ cúng, mùi hương thoang thoảng, ông Hồ lại nhớ đến người mẹ hiền hòa, tần tảo, chịu thương chịu khó, đã ra đi khi tuổi còn rất trẻ, không được gặp chồng, con gái, con trai lớn của mình.

Đến cổng Bắc Bộ Phủ, thấy hai đồng chí Vệ quốc đoàn, đội mũ ca lô, đính sao vành vàng, đang đứng gác. Bà Thanh nói với đồng chí gác: “Tôi là Thanh, chị ruột của Cụ Hồ và đây là hai cháu của tôi, chúng nó cũng bộ đội, chú cho chúng tôi vào thăm Cụ Hồ”. Sau khi đồng chí bảo vệ báo cáo lên trên, chừng 5 phút sau, một cán bộ ra đón và đưa bà cháu chúng tôi đến một căn phòng ở tầng hai gần phòng làm việc của Bác.

Đồng chí cán bộ thưa với bà Thanh: “Từ hôm đi Pháp về đến nay, Cụ rất bận việc. Hiện nay đang tiếp các đại biểu Quốc hội và cán bộ các tỉnh Nam Bộ ra, Cụ làm việc suốt ngày và tới khuya mới đi nghỉ. Đề nghị bà và hai đồng chí ráng đợi ở đây, Cụ đã biết bà và hai đồng chí đến”. Bà Thanh và chúng tôi ngồi đợi. Bà Thanh thì hơi sốt ruột, vì tháng trước bà đã ra mà chưa được gặp Bác, chốc chốc bà ngồi xuống đứng lên như bứt rứt trong người. Thỉnh thoảng bà lại nói với chúng tôi: “Chắc ông bận việc quá, không khéo quá trưa mới được gặp”. Còn chúng tôi, mỗi phút trôi qua là một phút hồi hộp, đinh ninh rằng thế nào cũng được gặp Bác Hồ, đang nghĩ trong bụng nên hỏi những gì và khi Bác hỏi thì trả lời những gì, trả lời ra sao… Khoảng 30 phút sau, lúc đó chừng 11g30, bỗng cánh cửa phía trái chúng tôi từ từ mở. Một ông già đứng tuổi, người gầy, dong dỏng cao, râu còn đen, tóc cũng đã điểm hoa râm, có vừng trán cao rộng, đôi mắt sáng, với thái độ hiền hòa, trong bộ ka ki vàng nhạt, đi lại phía chúng tôi. Thấy Bác, bà Thanh vừa gọi vừa chạy lại ôm lấy Bác: “Cậu, cậu, cậu khỏe không?”. Và bà khóc, nước mắt của bà thấm vào cánh tay áo của Bác. Bác cảm động, mắt Bác chớp chớp. Bác lấy khăn mặt lau mắt mình và nói: “Chị khỏe không? Em biết chị chờ em lâu, nhưng vì em đang bận tiếp các đồng chí Nam Bộ ra, chưa thể dứt việc ra được”. Được chứng kiến những phút gặp gỡ tình cảm ruột thịt của chị em Bác, vì dân vì nước xa nhau đã mấy chục năm trời, chúng tôi vô cùng cảm động và đứng lặng người.

Bác và bà Thanh đi lại phía bàn có chúng tôi đứng đó. Chúng tôi lúng túng chưa kịp chào Bác, Bác đã kéo ghế mời bà Thanh ngồi và quay sang phía chúng tôi: “Chị ơi, các chú nào đây?”. Bà Thanh nói: “Không phải chú đâu, cháu gọi cậu bằng ông đó”. Bà chỉ anh Thọ: “Đây là cháu Nguyễn Sinh Thọ, con đầu của Nguyễn Sinh Diên, Phó Bí thư Xô viết Nghệ Tĩnh. Diên là con anh Lời (Lý). Còn cháu này là Nguyễn Văn Danh, ở xã cuối huyện, con nuôi chú Hồ Tùng Mậu. Hai cháu thân nhau như anh em ruột, đến chơi với chị luôn, hôm nay chị đưa hai cháu vào để được gặp ông, để được ông chỉ bảo cho chúng nó nên người”. Bác bắt tay chúng tôi và để tay lên vai chúng tôi: “Tốt, tốt, tốt lắm, hai cháu ngồi”. Bà Thanh nói: “Ông ngồi thì hai cháu mới dám ngồi”. Bác nói: “Mời chị và hai cháu ngồi ta nói chuyện vui. Em đứng cũng được vì mấy ngày nay ngồi quá nhiều rồi, đứng cho thoải mái”. Bà Thanh ngồi đối diện với Bác, còn tôi và anh Thọ đứng bên phải và bên trái Bác. Chúng tôi nghe bà Thanh và Bác nói chuyện. Bà Thanh kể cho Bác nghe về tình cảnh gia đình cụ Phó Bảng Sắc mấy chục năm qua, kể qua bà Thanh và ông Khiêm (anh ruột Bác) hoạt động và bị tù đày ra sao. Bà con họ hàng kẻ còn người mất ra sao. Tôi ngắm Bác không chớp mắt. Đặc biệt tôi nhìn kỹ hai con mắt và bộ râu của Bác, chắc Bác đoán biết, Bác quay lại hỏi tôi: “Cháu nhìn ông gì mà kỹ thế?”. Tôi nói: “Thưa ông, nghe thiên hạ đồn mỗi mắt của ông có hai con ngươi nên sáng lắm, còn râu ông mọc ngược”. Bác cười, đầu hơi cúi xuống về phía tôi, lấy tay chỉ vào mắt và nói: “Mắt ông cũng như mọi người, làm gì có chuyện hoang đường ấy, còn râu (Bác nâng bộ râu đen lên) nó muốn mọc thế nào thì mọc”. Tôi gật đầu và im lặng. Liền sau đó Bác lấy hộp thuốc lá, rút một điếu và đưa mời mỗi chúng tôi một điếu. Anh Thọ thưa: “Thưa ông, chúng cháu không ai hút thuốc cả”. Bác nói: “Thế là tốt. Ông khuyên các cháu không nên nghiện một thứ gì như: Rượu, thuốc lá v.v… đó là một tập quán xấu, có hại”. Bà Thanh hỏi Bác: “Cậu đi lâu thế có nhớ quê hương không? Cậu còn nhớ chị ngồi ru võng cho cậu ngủ, chị hát bài ru Non nước không? Thuở đó gia đình ta khá vất vả”. Nói đến đây bà Thanh lại khóc. Nét mặt Bác bùi ngùi cảm động, Bác lại lấy khăn chấm chấm đôi mắt mình, vừa hút thuốc vừa nhìn ra ngoài cửa sổ, Bác nói: “Chị ơi, quê hương nghĩa nặng ơn sâu, mấy mươi năm ấy biết bao nhiêu tình, những chiến sĩ cách mệnh chân chính đều là những người con chí hiếu. Chị ơi, ở nước ngoài, có đôi khi, đêm khuya thanh vắng, bỗng được nghe một lời ru con của người mình, thì lòng dạ mình lại thêm nhớ đất nước, quê hương, bà con…”.

Tiếp đó, Bác hỏi đến quê hương, làng Sen, làng Hoàng Trù (quê nội và quê ngoại Bác) thay đổi ra sao, hỏi về bác Khiêm (anh ruột Bác), về ông nội anh Thọ, và một số cụ ở quê nhà. Sau khi hỏi chuyện bà Thanh, anh Thọ, Bác quay sang để tay lên vai tôi và hỏi: “Thế còn cháu, quê ở làng nào?”. Tôi trả lời: “Thưa ông, quê cháu ở làng Thọ Toán, cuối huyện Nam Đàn”. Nói đến đây, tôi sợ Bác không biết làng tôi, tôi thưa tiếp: “Thưa ông, làng cháu ở gần làng Phổ Đông, Phổ Tứ, làng Nam Kim, gần sông Lam, gần cầu sắt Yên Xuân”. Đến đây Bác nói: “Ờ, ờ, ông nhớ rồi, vùng đó có cả bãi giữa khá to của sông Lam, có lần ông đã đi đò dọc qua đó để đưa thư cho các cụ hoạt động chống đế quốc Pháp”. Tiếp đó Bác hỏi về cha mẹ tôi, hỏi tôi gặp và quen bác Hồ Tùng Mậu từ bao giờ. Tôi lần lượt trả lời Bác Hồ. Bác nói: “Tuy xa quê hương lâu, nhưng ông vẫn nhớ hàng cây dâm bụt, dãy chè mạn hảo, đến tương, món cá kho khô, đến hát dặm Nghệ Tĩnh”. Bác hỏi chúng tôi “có hay đi hát phường vải không?” và Bác mỉm cười.

Bà Thanh sực nhớ và nói: “Chị biếu cậu một chai tương Nam Đàn và hai con gà”. Vừa nói bà vừa chỉ vào góc tường chỗ để chai tương và hai con gà. Bác vui vẻ đáp: “Cảm ơn chị và hai cháu, tương thì để thỉnh thoảng mời cụ Huỳnh (cụ Huỳnh Thúc Kháng) cùng ăn cho vui, gà để nuôi cho nó đẻ trứng”. Bà Thanh thân mật hỏi Bác: “Chị hỏi thật cậu, việc gia đình riêng của cậu thế nào rồi?”. Bác nét mặt hơi nghiêm lại, đưa tay khoan khoát và nói rằng không thể nghĩ đến việc đó được. Hình như bà Thanh biết ý, không hỏi thêm gì nữa mà nói luôn: “Đây cũng là một việc quên tình riêng vì bổn phận. Thế chị hỏi: Khi nào cậu về thăm quê được?”. Bác nhìn ra ngoài cửa sổ, một lát trả lời rằng Bác cũng muốn về thăm quê, nhưng chắc chắn còn lâu, vì việc nước còn nặng nề lắm, rồi Bác quay sang hỏi chuyện chúng tôi: “Trước các cháu làm gì, cách mệnh tháng Tám bùng nổ làm gì, nay làm gì?”. Chúng tôi lần lượt trả lời. Khi biết trước đây không lâu, chúng tôi làm ở Việt Minh Nghệ An và nay vào bộ đội, Bác hỏi chúng tôi về phong trào Việt Minh tỉnh nhà, các đoàn thể, thanh niên, phụ nữ, nông hội và căn dặn: “Các cháu chuyển lời của ông về thăm hỏi cán bộ tỉnh nhà và nhắc phải đoàn kết, toàn tâm toàn ý phục vụ cách mệnh, đừng quan liêu, hủ hóa”.

Trong lúc Bác tiếp chuyện bà Thanh, chúng tôi thấy nhiều cán bộ đi lên gác và rẽ sang phòng bên, chúng tôi biết là các cán bộ đó đang chờ gặp Bác, hơn nữa buổi gặp cũng đã lâu, đã quá trưa, sợ ảnh hưởng đến sức khỏe và thời gian làm việc của Bác, tôi và anh Thọ thưa với bà Thanh để xin về. Bác hỏi: “Thế chị và hai cháu xơi cơm trưa chưa?”. Bà Thanh nói: “Chị đã ăn rồi, thế nào cũng được, nhưng chị muốn cho hai cháu được ăn cơm với ông cho chúng nó mừng”. Bác nói: “Ý em là muốn mời chị và hai cháu đến chiều ở lại ăn cơm với em, có cả cụ Huỳnh cùng dự. Hiện nay em phải làm việc cho đến suốt buổi chiều và tối nào cũng bận làm việc tới khuya”. Tôi mạnh dạn thưa: “Thưa ông, chúng cháu đi đã quá giờ quy định của đơn vị, xin phép ông và bà cho chúng cháu về”. Bác nói: “Các cháu nghĩ như vậy là đúng, cần giữ nghiêm kỷ luật quân sự. Ông không giữ các cháu. Khi nào muốn tới thăm ông cũng được, cứ nói các cháu là cháu của ông, ông sẽ dặn các đồng chí phụ trách ở đây”. Bác quay sang bà Thanh: “Xin mời chị nghỉ lại để chiều ăn cơm với em”. Bà Thanh trả lời: “Hai cháu về thì chị cũng về và ngày mốt chị về trong quê”. Và quay sang nói với chúng tôi: “Thế thì ba bà cháu ta về, để một dịp khác”. Cả ba bà cháu cáo từ ra về. Bác và bà Thanh cầm tay nhau hồi lâu và Bác bắt tay chúng tôi. Bác dặn chúng tôi cần gắng sức học tập, làm việc. Bác cầm tay bà Thanh: “Chúc chị về mạnh khỏe”. Bà Thanh dặn Bác: “Cậu giữ gìn sức khỏe, chị trông cậu gầy, chị thương cậu lắm, khi có dịp chị sẽ ra thăm cậu”. Bác tiễn bà Thanh và chúng tôi đến tận cầu thang, chờ chúng tôi xuống khuất mới quay về phòng làm việc. Cả ba bà cháu vừa đi vừa ngoái lại trông Bác, không muốn xa Bác.

Khi chúng tôi xuống sân, Văn phòng đã cho xe hơi đưa hai chúng tôi về đơn vị và đưa bà Thanh về nhà người quen ở một phố thuộc thành phố Hà Nội.

Chẳng bao lâu, cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp bắt đầu, Bác cùng Trung ương Đảng, Chính phủ lên Việt Bắc lãnh đạo toàn dân kháng chiến, bà Thanh trở về quê nhà. Không ngờ buổi gặp mặt đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, người chị ruột gặp Bác sau mấy chục năm xa cách, đã để lại trong chúng tôi bao tình cảm thân thương, ruột thịt của chị em Bác khi gặp nhau.

Hồ Quang Chính
Theo http://honvietquochoc.com.vn
Thu Hiền (st)

Bài viết khác: