Cách đây vừa tròn 40 năm, ngày 07 tháng 01 năm 1979, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Quân tình nguyện Việt Nam phối hợp với lực lượng vũ trang Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng công kích vào sào huyệt cuối cùng của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari, giải phóng hoàn toàn Thủ đô Phnôm Pênh; kết thúc thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng tàn bạo nhất trong lịch sử nhân loại. Với thắng lợi ngày 07 tháng 01, chúng ta không chỉ bảo vệ toàn vẹn độc lập, chủ quyền của đất nước, mà còn giúp nhân dân Campuchia giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự. Thắng lợi đó còn góp phần quan trọng vào việc giữ vững hòa bình trong khu vực và trên thế giới; vạch trần bản chất phản động, độc tài, hiếu chiến của chính quyền Campuchia Dân chủ, đồng thời cảnh báo với nhân loại nguy cơ của “Chủ nghĩa phát xít mới”.
Trong chiều dài lịch sử, đặc biệt là trong những năm tháng của cuộc kháng chiến chống thực dân pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Việt Nam và Campuchia luôn đoàn kết bên nhau, cùng chia ngọt sẻ bùi chống kẻ thù chung, giành độc lập, tự do cho mỗi nước. Tuy nhiên, sau khi lên nắm quyền lãnh đạo đất nước vào tháng 4 năm 1975, được các thế lực bên ngoài giúp sức, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã đi ngược lại với truyền thống vốn có của hai dân tộc, phản bội lại nhân dân Campuchia. Chúng thiết lập cái gọi là “Nhà nước Campuchia Dân chủ”, thi hành chế độ diệt chủng, tàn sát nhân dân, thanh trừng nội bộ, giết hại hàng triệu người dân vô tội, phá hủy hàng trăm nghìn trường học, bệnh viện, chùa chiền… Đất nước Campuchia trở thành trại khổ sai khổng lồ với đầy rẫy những hố chôn người. Cái gọi là “Nhà nước Campuchia Dân chủ” mà tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari dựng nên thực chất là một chế độ phát xít độc tài với những hành động thảm sát tiêu diệt những người bất đồng chính kiến, đòi dân chủ thực sự, những người cách mạng chân chính ở Campuchia. Chủ trương tàn bạo của Pôn Pốt đối với những người chống đối là: “Dù phải diệt thêm một triệu người nữa cũng kiên quyết làm, giết nhầm một kẻ vô tội còn hơn để sót một kẻ chống đối; trong gia đình, nếu một người ra rừng theo chống đối thì sẽ bị giết ba đời”. Trước tình hình đó, lực lượng yêu nước ở Campuchia đứng trước tình thế vô cùng khó khăn, như lời của Thủ tướng Campuchia Hun Xen sau này: “Chúng ta chẳng còn gì ngoài hai bàn tay trắng và ngồi chờ cái chết”.
Đối với Việt Nam, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari xuyên tạc lịch sử, kích động hận thù dân tộc, phát động cuộc chiến tranh xâm lược biên giới Tây Nam, gây ra những tội tác đẫm máu đối với người dân vô tội; xâm phạm nghiêm trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; chà đạp lên những giá trị tốt đẹp của mối quan hệ hữu nghị giữa hai nước, hai dân tộc Việt Nam, Campuchia. Từng là những người một thời cùng chung chiến hào với Việt Nam chống kẻ thù xâm lược chung, thậm chí đã được quân, dân Việt Nam chở che, đùm bọc trong những hoàn cảnh khó khăn, ác liệt, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đã phản bội cách mạng, dã tâm xâm lược Việt Nam. Đó là bản chất của những kẻ “dân tộc hẹp hòi”, đội lốt cách mạng để thực hiện những hành động phản cách mạng, phản bội lại bạn bè và hủy diệt chính dân tộc mình. Chúng đề ra cái gọi là “Đường lối chiến đấu mới”, trong đó xác định: “Chiến tranh giữa ta và Việt Nam là lâu dài, có tính chất gặm nhấm, ta không đánh nó trước thì ta không thắng… Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn, thì có thể đánh 10, 15 đến 20 năm, thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 60 triệu người Việt Nam”. Ngạo mạn và hết sức phản động, theo Báo Le Monde (Pháp) ngày 08 tháng 01 năm 1978, Pôn Pốt tuyên bố trên Đài phát thanh Phnôm Pênh: “Trong đời tôi, tôi hy vọng giải phóng Sài Gòn”.
Thực hiện tư tưởng phản động đó, ngay khi miền Nam Việt Nam vừa được giải phóng, tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari đưa quân đánh chiếm đảo Phú Quốc (03-5-1975), Thổ Chu (10-5-1975) và sau đó liên tiếp xâm phạm nhiều vùng lãnh thổ nước ta dọc biên giới từ Hà Tiên đến Tây Ninh với quy mô ngày càng lớn. Trong các cuộc tiến công xâm lược dọc biên giới Tây Nam, quân Pôn Pốt đã tiến hành nhiều vụ thảm sát khủng khiếp đối với dân thường Việt Nam, trong đó có thể kể đến vụ thảm sát ở Ba Chúc (An Giang). Ngày nay, Khu Di tích nhà mồ Ba Chúc đang còn chứa đựng 1.159 bộ xương cốt người dân vô tội bị quân Pôn Pốt giết hại là một bản cáo trạng, một chứng tích về tội ác “trời không dung, đất không tha” của bè lũ diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xari. Tính từ tháng 5 năm 1975 đến ngày 23 tháng 12 năm 1978, chúng đã giết hại 5.230 dân thường Việt Nam vô tội với những phương thức cực kỳ man rợ; đốt phá nhiều trường học, bệnh viện, nhà thờ, chùa chiền, cướp, giết trâu bò, làm cho hàng nghìn hécta hoa màu của Việt Nam bị bỏ hoang, nhiều người phải lìa bỏ nhà cửa, ruộng vườn, gây bao đau thương, tang tóc cho nhân dân Việt Nam.
Trước hành động gây hấn và mở rộng chiến tranh của kẻ địch, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã kiềm chế và kiên trì thực hiện chính sách hòa bình, hữu nghị với Nhà nước Campuchia Dân chủ, nhưng chúng ta càng kiềm chế, thì tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari càng lấn tới, buộc chúng ta phải chọn con đường đứng lên thực hiện quyền tự vệ chính đáng. Từ tháng 12 năm 1977, ta đã sử dụng lực lượng của các quân đoàn 3, 4 và một số sư đoàn của Quân khu 7, Quân khu 9 mở đợt phản công trên các hướng đường 7, đường 1 và đường 2, đánh bại kế hoạch đánh chiếm thị xã Tây Ninh của địch. Tiếp đó, từ mùa khô năm 1978, quân và dân ta phối hợp với các lực lượng vũ trang Campuchia tiếp tục mở các cuộc tiến công, đẩy lực lượng Pôn Pốt ngày càng rơi vào thế bị động, lúng túng. Với sự giúp đỡ của Việt Nam, ngày 03 tháng 12 năm 1978, Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia chính thức được thành lập. Đáp ứng lời kêu gọi của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, từ ngày 23 tháng 12 năm 1978, Quân tình nguyện Việt Nam cùng lực lượng vũ trang của Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia mở cuộc tổng phản công - tiến công, lần lượt phá vỡ toàn bộ hệ thống phòng thủ vòng ngoài của quân Pôn Pốt. Đến ngày 06 tháng 01 năm 1979, ta bắt đầu tổng công kích vào Thủ đô Phnôm Pênh. Sau hai ngày tổng công kích, đến ngày 07 tháng 01 năm 1979, Quân tình nguyện Việt Nam và lực lượng vũ trang Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia giải phóng Phnôm Pênh, đánh dấu sự sụp đổ hoàn toàn của tập đoàn phản động Pôn Pốt - Iêng Xari. Sau thắng lợi đó, ngày 08 tháng 01 năm 1979, Hội đồng cách mạng Campuchia được thành lập. Ngày 10 tháng 01 năm 1979, Hội đồng tuyên bố chấm dứt cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam do tập đoàn Pôn Pốt - Iêng Xari gây ra.
Thắng lợi trong cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam có ý nghĩa vô cùng to lớn, chúng ta không chỉ bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của Tổ quốc mà còn cứu nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng, giành lại quyền được sống, quyền làm người và bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do thật sự, tạo điều kiện để khôi phục lại tình hữu nghị và tình đoàn kết chiến đấu vốn có giữa hai Đảng và nhân dân hai nước Việt Nam - Campuchia; góp phần giữ vững hòa bình, ổn định ở khu vực Đông Nam Á và trên thế giới; đấu tranh vạch trần bản chất của chế độ diệt chủng, sắc tộc, chế độ độc tài và cảnh báo cho nhân loại cảnh giác trước nguy cơ của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và chủ nghĩa phát xít mới.
40 năm qua kể từ sau Chiến thắng ngày 07 tháng 01 năm 1979, mối quan hệ hữu nghị hợp tác giữa Việt Nam - Campuchia được các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đang không ngừng được củng cố và phát triển tốt đẹp, mang lại lợi ích thiết thực cho hai nước. Việt Nam và Campuchia duy trì thường xuyên các chuyến thăm lẫn nhau của Lãnh đạo cấp cao, lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương và giao lưu nhân dân hai nước. Nhờ đó, đã góp phần vun đắp mối quan hệ hữu nghị truyền thống Việt Nam - Campuchia ngày càng phát triển đi vào chiều sâu và có hiệu quả thiết thực trên các lĩnh vực. Hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư và du lịch giữa hai nước Việt Nam - Campuchia phát triển nhanh. Kim ngạch thương mại hai chiều tăng trung bình khoảng 30 - 40%/năm, đạt 3,8 tỷ USD vào năm 2017. Trong 7 tháng đầu năm 2018, kim ngạch xuất khẩu giữa hai nước đạt 2,7 tỷ USD, tăng 18,7% so với cùng kỳ năm 2017. Hiện nay, Việt Nam đang là đối tác thương mại lớn thứ ba và đứng thứ năm trong số các nhà đầu tư nước ngoài vào Campuchia. Việt Nam có trên 190 dự án đầu tư sang Campuchia được cấp giấy chứng nhận đầu tư ra nước ngoài. Hợp tác trên các lĩnh vực quốc phòng, an ninh, giáo dục - đào tạo, du lịch… giữa hai nước tiếp tục phát triển. Campuchia đã tích cực hỗ trợ và giúp đỡ Việt Nam trong công tác tìm kiếm, cất bốc, hồi hương hài cốt liệt sỹ quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hy sinh trên đất Campuchia qua các thời kỳ chiến tranh.
Trong thời gian tới, dù bối cảnh tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường, hai nước, hai dân tộc Việt Nam và Campuchia sẽ cùng nhau cảnh giác, đấu tranh với chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi bị kích động và thứ văn hóa bôi nhọ, vu khống, kích động, gây chia rẽ để không ngừng tăng cường hơn nữa quan hệ đoàn kết, hữu nghị truyền thống và hợp tác toàn diện, vun đắp hơn nữa cho mối quan hệ này phát triển tốt đẹp, mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, vì lợi ích của nhân dân Việt Nam và Campuchia, vì hòa bình, phát triển trong khu vực và trên toàn thế giới./.
Thanh Huống (tổng hợp)