Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta xác định phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết tốt tám mối quan hệ lớn, trong đó có mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế”. Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh và cụ thể hơn là mối quan hệ “giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế”. Để nhận thức đúng và xử lý tốt mối quan hệ đó, Đảng đã chỉ rõ nguyên tắc và phương châm: Phải xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn; chú trọng nghiên cứu dự báo xu hướng phát triển của đất nước và thế giới, những diễn biến của khu vực, quốc tế tác động tới nước ta cả thuận lợi và khó khăn, tích cực và tiêu cực để đón kịp, tận dụng thời cơ, chủ động vượt qua thách thức và nguy cơ, tôn trọng quy luật khách quan, “không phiến diện, cực đoan, duy ý chí”.

1. Bản chất, nội hàm của mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế

Đây là mối quan hệ khách quan, nảy sinh và ngày càng sâu đậm trong quá trình đổi mới, phát triển đất nước, mở cửa, hội nhập với thế giới. Đó là mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau, nếu không xử lý tốt, có thể dẫn đến những hạn chế, kìm hãm nhau trong bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc. Bản chất và nội hàm của nó thể hiện trên những điểm cơ bản sau:

Trước hết, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện, tiền đề để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Điều đó thể hiện: Một là, độc lập, tự chủ không phải là biệt lập, cô lập với thế giới bên ngoài, đứng ngoài hội nhập quốc tế, mà thể hiện chủ quyền, quyền tự quyết, tự lựa chọn, quyết định con đường, mô hình phát triển của quốc gia, dân tộc. Tự chủ là năng lực thực hiện chủ quyền, tức là thực hiện quyền tự quyết dân tộc trên thực tế. Độc lập, tự chủ bao gồm độc lập, tự chủ về chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, v.v. Do đó, không có độc lập, tự chủ thì không thể nói tới hội nhập quốc tế chứ chưa nói tới chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Hai là, độc lập, tự chủ là nhân tố đóng vai trò quyết định trong mối quan hệ với hội nhập quốc tế. Có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong việc tự quyết định lộ trình, bước đi, cách thức, nội dung, biện pháp, đối tác, lĩnh vực,… trong hội nhập quốc tế. Đường lối độc lập, tự chủ của Đảng đã định hướng đúng cho tiến trình hội nhập từ việc lựa chọn lĩnh vực ưu tiên, xác định lộ trình hội nhập phù hợp. Ban đầu, chúng ta chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, sau đó đã từng bước hội nhập toàn diện vào khu vực và quốc tế; quan hệ đối ngoại của nước ta được mở rộng, ngày càng đi vào chiều sâu,… góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước. Quan điểm và chính sách kiên trì độc lập, tự chủ của Đảng luôn được cụ thể hóa, bổ sung và phát triển theo sự chuyển biến của tình hình trong nước và quốc tế. Điều đó đã mở đường cho quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam ngày càng sâu rộng, phục vụ thiết thực, hiệu quả cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa. Ba là, có độc lập, tự chủ thì mới độc lập, tự chủ trong phân tích, xử lý thông tin; lựa chọn, đề xuất các giải pháp thiết thực, đồng bộ, hữu hiệu trước sự thay đổi mau lẹ, hạn chế tác động tiêu cực, phát huy tác động tích cực của tình hình thế giới và khu vực trong quá trình chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Bốn là, độc lập, tự chủ là cơ sở để tận dụng nhiều cơ hội lớn; hạn chế tối đa thách thức do quá trình toàn cầu hóa gây ra, nhất là đối với những nước vừa, nhỏ, đang phát triển như Việt Nam. Năm là, độc lập, tự chủ là cơ sở, điều kiện để nước ta chủ động phát huy lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập quốc tế nhằm từng bước phát triển. Chúng ta chỉ có thể xuất khẩu được những mặt hàng có lợi thế, như: Các sản phẩm nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp, may mặc, giày da,… khi hội nhập đầy đủ và sâu rộng vào kinh tế quốc tế. Nhưng nếu không độc lập, tự chủ, thì lợi thế so sánh trong hội nhập sẽ bị các nước lớn lái theo ý họ. Có độc lập, tự chủ thì mới lôi cuốn, kêu gọi các đối tác đến làm ăn tại nước ta, v.v.

Thứ hai, hội nhập quốc tế góp phần tăng cường khả năng giữ vững độc lập, tự chủ của quốc gia, dân tộc. Điều đó được thể hiện: Một là, hội nhập quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội, tiền đề cho chúng ta giữ vững độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa, quốc phòng, an ninh, v.v. Thực tiễn hơn 30 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành, quản lý của Nhà nước, hội nhập quốc tế đã trở thành một trong các nguồn lực quan trọng để chúng ta củng cố độc lập, tự chủ. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế vừa là giải pháp, vừa là động lực để giữ vững độc lập, tự chủ. Hai là, hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội thuận lợi để huy động nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội trong nước. Thực tiễn đã minh chứng, chính hội nhập quốc tế cho chúng ta những điều kiện để tận dụng được lợi thế của các nguồn lực bên ngoài, như: Vốn, kỹ thuật, công nghệ, quản lý, v.v. Ba là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế giúp chúng ta thực hiện hiệu quả công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức. Quá trình toàn cầu hóa đang làm thay đổi phân công lao động trên từng khu vực và toàn thế giới. Chúng ta có thể tận dụng sự tái phân công lao động này để phát huy mặt mạnh và lợi thế so sánh cho phát triển kinh tế. Trên cơ sở đó, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bốn là, hiện nay, đang nổi lên nhiều vấn đề an ninh đáng lo ngại, như: Chủ nghĩa khủng bố, xung đột tôn giáo, xung đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai, nguy cơ bất ổn chính trị,… đe dọa trực tiếp đến sự ổn định và phát triển của từng quốc gia, khu vực và cả thế giới. Điều này đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng cùng một cơ chế thống nhất, hiệu quả trên cơ sở hợp tác giữa các nước, khu vực cũng như toàn cầu. Muốn vậy, các nước phải cùng nhau hợp tác. Cho nên, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ tạo ra cơ hội, môi trường hòa bình, ổn định để chúng ta phát triển đất nước, trên cơ sở đó góp phần giữ vững độc lập, tự chủ. Năm là, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sẽ giúp chúng ta hội nhập đầy đủ, sâu rộng hơn vào các thể chế kinh tế thế giới, khu vực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, giữ vững độc lập, tự chủ.

2. Những định hướng trọng tâm để xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Để tạo nên những thành tựu to lớn của đất nước và hạn chế tác động tiêu cực trong khi hội nhập, cần tránh cực đoan trong cả nhận thức và hành động, nhất là quan điểm cho rằng: (1). Độc lập, tự chủ là hằng số bất biến, có nội dung không thay đổi, không thể tương dung với hội nhập quốc tế; xem thế giới như một phức thể khó lường nên phải hết sức thận trọng, không nên thúc đẩy hội nhập quốc tế. (2). Trong thời đại của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, không nhất thiết và không thể duy trì, củng cố độc lập dân tộc, tự chủ. Điều đó cho thấy, việc xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế không đơn giản mà phải có sự nghiên cứu thấu đáo và khoa học trên mấy phương diện sau:

Trên lĩnh vực chính trị và đối ngoại, trong cả môi trường quốc tế, khu vực và toàn cầu, xử lý mối quan hệ này cần hiểu rõ, sâu sắc các nhân tố quan trọng sau: Thứ nhất, phải nắm chắc và xử lý tốt môi trường khu vực. Sự ổn định và phát triển, hay sự bất ổn và khủng hoảng tại Đông Nam Á và rộng hơn là châu Á - Thái Bình Dương có ảnh hưởng trực tiếp đến quan hệ đối ngoại của nước ta và ảnh hưởng tới việc bảo vệ, giữ vững độc lập, tự chủ khi hội nhập. Thứ hai, về môi trường quốc tế, độc lập và tự chủ về đối ngoại của Việt Nam luôn chịu ảnh hưởng trong tương quan và quan hệ chiến lược giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực quốc tế. Việt Nam có thể khai thác lợi ích từ hội nhập đến đâu tùy thuộc vào sự ổn định, phát triển trong nước, cũng như năng lực xử lý quan hệ với các nước lớn, các trung tâm quyền lực thế giới, bảo đảm cân bằng lợi ích của nước ta trong quan hệ với họ. Thứ ba, về môi trường toàn cầu, hội nhập và mở cửa tạo cơ hội cho đất nước phát triển nhưng cũng là điều kiện để các thế lực thù địch bên ngoài nhân danh nhân quyền, dân chủ, tôn giáo, can thiệp vào công việc nội bộ, thực hiện “diễn biến hòa bình”, kích động, xúi giục các hoạt động bạo loạn, lật đổ, đe dọa an ninh quốc gia.

Trên lĩnh vực kinh tế, xử lý mối quan hệ này có 4 nội dung chính yếu. Thứ nhất, đẩy mạnh hội nhập kinh tế một cách chủ động và tích cực với việc ký kết chính thức và thực hiện có hiệu quả các hiệp định hợp tác kinh tế quốc tế; xây dựng loại hình các thể chế kinh tế hướng tới hội nhập quốc tế trên cơ sở bảo đảm độc lập, tự chủ. Thứ hai, luôn giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường. Thứ ba, bảo đảm nền kinh tế của đất nước không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Thứ tư, điều cốt lõi nhất để giữ vững độc lập, tự chủ là quốc gia phải có thực lực, cụ thể là có một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đó là nền kinh tế có cơ cấu kinh tế hợp lý, hiệu quả và đảm bảo độ an toàn cần thiết, phát triển bền vững và có năng lực cạnh tranh cao; cơ cấu xuất nhập khẩu cân đối; cơ cấu mặt hàng đa dạng, phong phú, với tỷ lệ các mặt hàng công nghệ và có giá trị gia tăng lớn chiếm ưu thế; cơ cấu thị trường quốc tế và đối tác đa dạng, tránh chỉ tập trung quá nhiều vào một vài mục tiêu, một vài đối tác.

Để bảo đảm chủ quyền quốc gia trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, khâu then chốt nhất là không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và hiệu lực, hiệu quả quản lý văn hóa, xã hội của Nhà nước. Thứ nhất, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người mới giàu lòng yêu nước, sáng tạo; làm tốt công tác lãnh đạo, quản lý báo chí, truyền thông và không gian mạng. Thứ hai, các chính sách văn hóa - xã hội, dân tộc, tôn giáo phải được coi trọng, tránh để các thế lực thù địch kích động, chia rẽ; không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chất lượng và hiệu quả hệ thống cung cấp các dịch vụ công, tăng cường hiệu lực tư pháp, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng. Thứ ba, Việt Nam đã trở thành một nước có mức thu nhập trung bình, nên trọng tâm công tác xã hội chuyển dần từ vấn đề xóa đói, giảm nghèo sang quản trị và an sinh. Do đó, cần tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền, thực hành dân chủ, mở rộng sự tham gia của người dân vào hoạt động của Nhà nước.

Trên phương diện quốc phòng - an ninh, để giữ vững độc lập, tự chủ khi hội nhập quốc tế, cùng với việc xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh phải luôn chú trọng giải quyết mối quan hệ giữa: Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; nhiệm vụ quốc phòng, an ninh với công tác đối ngoại. Đồng thời, dự báo đúng tình hình quốc tế, khu vực, những điều chỉnh chiến lược và các quan hệ của các nước lớn có liên quan đến nước ta, từ đó dự liệu trước những khả năng, tình huống để tính đến các phương án đối phó.

Một số vấn đề có tính nguyên tắc: Thứ nhất, lợi ích quốc gia được đặt ở vị trí số một trong mục tiêu chính sách đối nội, đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thứ hai, phải thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, không lệ thuộc vào sự chi phối từ bên ngoài. Thứ ba, coi trọng, củng cố và thiết lập quan hệ ngoại giao với các quốc gia láng giềng, xây dựng môi trường hòa bình, thân thiện, hữu nghị, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế. Thứ tư, xây dựng nền quốc phòng vững mạnh, hiện đại, coi đó là một trong những cơ sở quan trọng để bảo vệ chủ quyền quốc gia và thực thi đường lối đối ngoại. Thứ năm, trên lĩnh vực kinh tế, cần tuyệt đối tránh tình trạng bị lệ thuộc. Thứ sáu, coi trọng và phát triển quan hệ với các nước lớn, vì nước lớn luôn có vai trò ảnh hưởng đến đời sống quan hệ quốc tế, hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới. Thứ bảy, xây dựng và thiết lập nền ngoại giao đa phương. Bởi lẽ, cùng với mở rộng ngoại giao song phương với các chủ thể là quốc gia dân tộc, các nước còn tham gia tích cực vào các tổ chức quốc tế và khu vực, coi đó là biện pháp hữu hiệu để hiện thực hóa lợi ích quốc gia, cũng như tăng cường sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau, giữ gìn an ninh và hòa bình khu vực cũng như trên thế giới. Thứ tám, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

3. Thực trạng xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế

Quán triệt và từng bước xử lý mối quan hệ trên, chúng ta đã thu được những thắng lợi ấn tượng: “Thực hiện đường lối đối ngoại đúng đắn của Đảng, trong thời gian qua, hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Môi trường hòa bình thuận lợi cho phát triển, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ tiếp tục được giữ vững”1. Kết quả đó được thể hiện:

Lĩnh vực chính trị, chúng ta đã đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, đưa khuôn khổ quan hệ đã xác lập vào thực chất: Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Hội nhập quốc tế về chính trị được thực hiện tương đối nhanh, sâu rộng, thực chất cả trên kênh song phương và đa phương. Hội nhập song phương tạo tiền đề để Việt Nam phát huy vai trò trên diễn đàn đa phương, qua đó tạo thuận lợi cho quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu đã góp phần cải thiện đáng kể tiềm lực trong nước, nâng cao vị thế địa chiến lược của Việt Nam tại khu vực Đông Nam Á, Đông Á, châu Á - Thái Bình Dương và trên phạm vi toàn cầu. Từ một quốc gia mới tham gia vào tiến trình hội nhập, Việt Nam đã trở thành nhân tố tích cực trong khu vực và chủ động đề xuất các sáng kiến, thúc đẩy các liên kết, nhất là trật tự kinh tế, chính trị toàn cầu, trở thành thành viên có trách nhiệm và uy tín trong cộng đồng quốc tế.

Lĩnh vực kinh tế, chúng ta đã xúc tiến mạnh thương mại và đầu tư quốc tế, mở rộng thị trường, khai thác hiệu quả các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học - công nghệ, trình độ quản lý tiên tiến và các thỏa thuận được ký kết, đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương. Thành công rõ nhất của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài là đã hình thành các cụm sản xuất và phát triển các ngành sản xuất có trình độ công nghệ tiên tiến. Theo Tổng cục Thống kê, tới năm 2018, đầu tư vào Việt Nam đã đăng ký gần 400 tỷ USD; được xếp vào nhóm 15 quốc gia thu hút FDI hàng đầu thế giới. Hiện nay, cộng đồng tài trợ quốc tế hoạt động thường xuyên ở nước ta đã lên tới hơn 50 nhà tài trợ (gồm cả song phương và đa phương). Ngoài ra, nước ta còn nhận được vốn ODA từ hơn 600 tổ chức phi chính phủ quốc tế. Thành công của hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần tăng cường nguồn lực, tạo điều kiện vật chất - kỹ thuật thuận lợi cho bảo vệ độc lập, tự chủ của đất nước, tạo nền tảng để hội nhập về chính trị và các lĩnh vực khác. Kinh tế phát triển, sức mạnh tổng hợp được tăng lên là nhân tố quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ của đất nước.

Lĩnh vực văn hóa - xã hội, hội nhập quốc tế của nước ta với cộng đồng thế giới đã được đẩy mạnh, đa dạng về hình thức, phương thức, đối tác, có chuyển biến về chất lượng và đi vào chiều sâu, thu hút bạn bè quốc tế đến với Việt Nam ngày một nhiều hơn. Việt Nam đã ký hơn 100 thỏa thuận, điều ước quốc tế song phương có nội dung văn hóa. Riêng năm 2018, khách quốc tế đến Việt Nam đã vượt 15,5 triệu lượt người. Từ thành công của hội nhập trong lĩnh vực này, đã đưa tới việc hình thành nhiều dự án, công trình văn hóa tại Việt Nam với quy mô ngày càng được mở rộng, tạo điều kiện để nhân dân ta có cơ hội tiếp cận và thưởng thức những giá trị văn hóa tiêu biểu của các quốc gia trên thế giới, thúc đẩy tiềm năng sáng tạo của nhân dân. Nguồn lực và động lực về văn hóa - xã hội được tăng cường sẽ là yếu tố quan trọng để chúng ta giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, để văn hóa Việt Nam là ngôi sao lấp lánh trong bầu trời văn hóa các dân tộc trên thế giới.

Hội nhập trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh là một trong những nhiệm vụ quan trọng để phục vụ và hỗ trợ cho chính sách chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện của Đảng, Nhà nước ta, vừa phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, vừa bảo vệ độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh môi trường quốc phòng - an ninh trên thế giới và khu vực có những diễn biến phức tạp. Việt Nam đã từng bước mở rộng hợp tác quốc phòng - an ninh với các nước lớn và các nước trong khu vực. Hiện nay, nước ta đã có quan hệ quốc phòng chính thức với gần 70 nước, đặt văn phòng tùy viên quốc phòng tại hơn 30 nước và hơn 40 nước có văn phòng tùy viên quân sự tại Việt Nam. Đồng thời, tham gia tích cực vào các diễn đàn an ninh - quốc phòng khu vực và từng bước tham gia các hoạt động hợp tác quốc tế về an ninh - quân sự toàn cầu.

Giữ vững độc lập, tự chủ trong hội nhập quốc tế là một trong những vấn đề lý luận, thực tiễn quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Độc lập, tự chủ là nguyên tắc nhất quán, bất di, bất dịch. Quán triệt đường lối đối ngoại của Đảng, quan niệm về độc lập, tự chủ và xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cần được tiếp tục nghiên cứu, làm rõ để tạo sự thống nhất cao trong nhận thức và hành động. Thực hiện quá trình hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực một cách chủ động, tích cực, sâu rộng và có hiệu quả là phương thức hữu hiệu để chuyển hóa ngoại lực thành nội lực, sức mạnh quốc tế trở thành sức mạnh quốc gia, sức mạnh thời đại thành sức mạnh dân tộc, qua đó giữ vững độc lập, tự chủ, chủ quyền đất nước. Chúng ta cần phát huy kết quả đã đạt được, đồng thời nắm bắt những thay đổi của thời cuộc để có chính sách, biện pháp cụ thể nhằm đạt được những thành công mới trong tình hình mới.

GS, TS. Vũ Văn Hiền
Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương
Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân
Xuân Đức (st)

1 - ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr.151.

Bài viết khác: