Kho tàng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một hệ thống các luận điểm về chính sách xã hội. Những chính sách xã hội do Người đề xướng và chỉ đạo thực hiện thấm đượm tính nhân văn sâu sắc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu, anh hùng giải phóng dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa kiệt xuất đã để lại cho dân tộc ta một di sản vô giá đó là hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng về chính sách xã hội. Những năm tháng bôn ba ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rất nhiều bài lên án chính sách xã hội của chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam. Khi trở về nước hoạt động cách mạng, đặc biệt từ khi giành được nền độc lập, Người đã trực tiếp chỉ đạo xây dựng và thực hiện chính sách xã hội mới giàu chủ nghĩa nhân văn, phản ánh bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây chính là nền tảng chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay.
Chính sách xã hội là hệ thống công cụ tác động vào con người, các tổ chức và đoàn thể xã hội nhằm điều hòa các hành vi, lợi ích của các nhóm xã hội cũng như các thành viên trong xã hội, góp phần thực hiện công bằng, ổn định, tiến bộ và sự phát triển năng động, hài hòa cho con người. Từ quan niệm trên cho thấy, mục đích của chính sách xã hội là phải vì con người, lấy con người làm gốc, làm xuất phát điểm và đích hướng tới trong việc hoạch định và thực hiện. Con người ở đây, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh trước hết là nhân dân lao động nói chung, mà cụ thể là công nhân, nông dân, trí thức, đồng bào dân tộc thiểu số và các tầng lớp dân cư khác trong cộng đồng dân tộc Việt Nam. Chính sách xã hội phải tạo điều kiện cho mọi người được hưởng phúc lợi xã hội và an sinh xã hội, phải tạo ra những điều kiện thuận lợi nhất về kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng để phát triển toàn diện từng cá nhân cho đến cả cộng đồng xã hội. Vì vậy, nếu “coi nhẹ chính sách xã hội tức là coi nhẹ yếu tố con người trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”1 và bảo vệ Tổ quốc. “Chính sách xã hội là động lực to lớn nhằm phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”2. Đây là điểm khác căn bản giữa chính sách xã hội của chế độ thực dân phong kiến và chính sách xã hội mới do Hồ Chí Minh chỉ đạo thực hiện, phản ánh bản chất nhân văn của chủ nghĩa xã hội.
Dưới chế độ thực dân phong kiến, đời sống nhân dân Việt Nam vô cùng khổ cực, chẳng những không được hưởng một chút quyền lợi nào từ chính sách nhà nước bảo hộ mà còn bị bóc lột đến cùng cực. Dựa vào những tài liệu và sự việc cụ thể, từ năm 1919-1945, Nguyễn Ái Quốc đã viết rất nhiều bài báo và tác phẩm vạch trần những tội ác của chế độ thực dân đối với đời sống của người dân xứ thuộc địa. Nổi bật là nhà nước cai trị đã hầu như không đầu tư cho các công trình phúc lợi công cộng, duy trì điều kiện làm việc tồi tệ̣ trong các khu mỏ, đồn điền, làm đường; không đủ trường học cho trẻ em; đầu độc dân chúng bằng rượu và thuốc phiện; bằng những con số thống kê, Nguyễn Ái Quốc chỉ ra rằng nhà nước cai trị đã chi tiêu cho ngành y tế không đầy 400.000 phrăng và chỉ có 1 triệu phrăng cho ngành giáo dục. Số tiền cho công việc xã hội chỉ bằng không đầy một phần trăm số thu nhập do bán rượu và thuốc phiện. Khi người dân gặp thiên tai lũ lụt, nhà nước thực dân đã hoàn toàn không thực hiện nghĩa vụ phúc lợi của mình, ngược lại còn lợi dụng để kiếm lời.
Từ việc làm rõ tình trạng khổ cực của nhân dân dưới chế độ thực dân phong kiến đã tạo tiền đề nhận thức về hành động cách mạng đồng thời cũng là cơ sở hình thành tư tưởng, quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về chính sách xã hội. Những tư tưởng, quan điểm cơ bản này được xuất phát từ thực tiễn cụ thể của đất nước và trong từng thời kỳ cách mạng cụ thể. Ngay trong thời kỳ đầu hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện quan điểm, tư tưởng của mình về chính sách xã hội của nhà nước Việt Nam thông qua “Chương trình Việt Minh”. Đây là một văn kiện đặc biệt quan trọng, trình bày cương lĩnh giành độc lập dân tộc đồng thời mô tả những nét cơ bản nhất của một mô hình nhà nước mới, trong đó có chính sách về phúc lợi và an sinh xã hội. Chính mô hình này đã góp phần động viên sức mạnh và sự tham gia của toàn thể nhân dân vào công cuộc đấu tranh độc lập dân tộc. Nội dung của chính sách xã hội mà Chương trình đề cập bao gồm các vấn đề: thi hành luật lao động, bao gồm cả trẻ em. Nam nữ bình quyền; hủy bỏ nền giáo dục nô lệ̣, gây dựng nền quốc dân giáo dục; lập thêm nhà thương, nhà đỡ đẻ, nhà dưỡng lão; Nhà nước chăm nom người già và kẻ tàn tật; Giúp đỡ gia đình đông con. Lập ấu trĩ viên để chăm nom trẻ con; lập các nhà chiếu bóng, diễn kịch, thư viện để nâng cao trình độ trí dục cho nhân dân. Riêng về giáo dục, Chương trình Việt Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của phát triển nền giáo dục mang tính phổ cập và toàn diện, chú trọng đào tạo nhân tài cho nước nhà, “khuyến khích và giúp đỡ các hạng trí thức được phát triển tài năng của họ”.
Về phúc lợi cho các nhóm xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập đến giai cấp công - nông, trong đó kể cả phụ nữ như: Ngày lao động 8 giờ cho người lớn và 6 giờ cho những người làm việc nặng; hàng năm công nhân được nghỉ phép 2 tuần; đối với phụ nữ làm công việc nặng nhọc được nghỉ 8 tuần trước khi đẻ và 8 tuần sau khi đẻ, 6 tuần nghỉ đẻ đối với phụ nữ làm công chức và làm những công việc nhẹ, có trả lương; ban hành luật bảo hiểm đối với công nhân... Hồ Chí Minh đặc biệt chú ý đến trẻ em, trong Chương trình Việt Minh cũng dành nhiều quyền phúc lợi cho trẻ em.
Trong việc thực hiện các chính sách xã hội thì các tổ chức xã hội như Công hội, Tổ dân cày, hợp tác xã…đóng một vai trò quan trọng. Tham gia trong các tổ chức này, người dân có điều kiện cùng sinh hoạt, cùng chia sẻ kinh nghiệm trong cuộc sống, trong lao động sản xuất, giúp đỡ nhau trong công việc…Vì vậy, Hồ Chí Minh khuyến khích mọi người tham gia và phát triển các tổ chức như thế này. Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người đã dành phần lớn để trình bày về các tổ chức có vai trò to lớn trong lĩnh vực phúc lợi. Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh còn chỉ ra ý nghĩa chính trị của hoạt động phúc lợi xã hội, khi đề cập đến các tổ chức cứu trợ quốc tế. Theo Người, khi chúng ta gặp nạn thì cần phải biết cách liên hệ với các tổ chức cứu trợ quốc tế để được giúp đỡ.
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Châu Á - ra đời. Tiếp quản một đất nước bị tàn phá nặng nề sau hàng thập niên dưới ách thực dân Pháp, phát xít Nhật, đồng thời chính quyền cách mạng lại phải bắt tay ngay vào việc chuẩn bị cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược. Trong bối cảnh đó, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa non trẻ, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối chính sách để giải quyết những yêu cầu phúc lợi cơ bản và trước mắt, đồng thời từng bước xây dựng nền tảng cho một hệ thống chính sách xã hội mới.
Tư tưởng bao trùm của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ này là ý chí đấu tranh ngoan cường cho độc lập, thống nhất của Tổ quốc và tự do, hạnh phúc của nhân dân Việt Nam. Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc không tách rời với tự do hạnh phúc của nhân dân. Người nói: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”3. Người nhấn mạnh: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”4. Người khẳng định chính sách của Chính phủ là phải đoàn kết toàn dân thực hiện cho được các vấn đề thuộc lĩnh vực phúc lợi xã hội: “Đạo nghĩa là chính sách của chính phủ đối với dân chúng - chính sách này phải hợp với nguyện vọng và quyền lợi của dân chúng. Đối với dân, Chính phủ phải thi hành một nền chính trị liêm khiết như cải thiện đời sống của nhân dân, cứu tế thất nghiệp, sửa đổi chế độ xã hội, phát triển kinh tế, văn hóa... có như thế, dân chúng mới đoàn kết chung quanh chính phủ,... ”5.
Xuất phát từ quan điểm cơ bản trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra mục tiêu cấp bách của Chính phủ là: Làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở và có học hành. Bốn điều này thể hiện những nội dung cơ bản của phúc lợi xã hội. Ngay trong phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách, trong đó có giải quyết nạn đói. Tiếp đó, Người đề nghị Chính phủ phát động phong trào chống nạn đói bằng cách mở cuộc lạc quyên trong cả nước và Người đã mở đầu cho phong trào đó: “Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy, tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo”6.
Cuộc kháng chiến chống Pháp đã làm cho một bộ phận lớn nhân dân phải tản cư, rời bỏ tài sản, nhà cửa, quê hương. Điều này đặt ra một loạt các vấn đề chính trị xã hội. Trước hoàn cảnh như vậy, Hồ Chí Minh đã phát động một phong trào giúp đỡ xã hội dành riêng cho đồng bào tản cư với truyền thống “nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”. Không chỉ phát động một phong trào cứu trợ xã hội, bằng các chính sách và sắc lệnh từ cương vị của mình, Hồ Chí Minh còn từng bước tạo dựng cả một hệ thống chính sách và định chế cứu trợ xã hội, làm cơ sở cho bộ phận này trong những thời kỳ sau.
Tình trạng mù chữ của hơn 90% dân số được Hồ Chí Minh xem như là một trong ba “quốc nạn”, bởi theo Người: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Vì vậy, Người đã coi xóa nạn mù chữ cho đông đảo người dân là nhiệm vụ phúc lợi hàng đầu của Nhà nước cách mạng. Hưởng ứng lời kêu gọi của Người, một phong trào toàn dân rộng lớn chưa từng thấy nhằm thanh toán nạn mù chữ đã được thực hiện trên cả nước. Đây có thể được coi là phong trào xóa nạn mù chữ mang tính quần chúng lớn nhất đầu tiên trong thế giới các nước thuộc địa (chính điều này đã góp phần khiến tổ chức UNESCO công nhận Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa kiệt xuất năm 1990). Chỉ trong một thời gian ngắn, hơn hai triệu người đã biết đọc, biết viết. Và chỉ sau 5 năm nắm chính quyền, Nhà nước mới đã ghi được một thành tích vang dội là giúp cho khoảng 13 triệu người dân Việt Nam biết đọc, biết viết.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ 9 năm đã khiến cho dân tộc chịu nhiều hy sinh mất mát. Cùng với thời gian và mức độ khốc liệt của chiến tranh, số lượng liệt sĩ, thương binh ngày càng tăng. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chính là người đã khởi xướng công tác giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ, điều sau này vừa trở thành phong trào vừa là một bộ phận của hệ thống chính sách phúc lợi xã hội quốc gia, thể hiện tính nhân văn và bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động và cổ vũ cho các phong trào giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ dưới nhiều hình thức như: nhận con liệt sĩ làm con nuôi, lập hội nghĩa thương, lập an dưỡng đường, quỹ ủng hộ và giúp đỡ thương binh và gia đình liệt sĩ, đưa thương binh về sống trong cộng đồng, cấp đất cho thương binh, giúp đỡ thương binh trong việc tăng gia sản xuất và các công việc hàng ngày có thể được. Đồng thời, Người đã nhấn mạnh đến tư tưởng giúp đỡ thương binh lâu dài, tại cộng đồng và hội nhập xã hội như tổ chức lao động cho thương binh tùy theo điều kiện và sức khỏe của họ.
Năm 1954, hòa bình lập lại ở miền Bắc. Cách mạng Việt Nam phải đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược: Tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc. Trong thời gian này, tư tưởng của Hồ Chí Minh về những vấn đề chính sách xã hội được thể hiện trong hoàn cảnh đặc biệt của miền Bắc vừa chuẩn bị góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Bước sang giai đoạn mới, Hồ Chí Minh xác định chăm lo đời sống của nhân dân là một mục tiêu hàng đầu của Nhà nước. “Kiên quyết nâng cao dần mức sống của nhân dân, trước hết là của công nhân, bộ đội và công chức, đồng thời giảm nhẹ dần sự đóng góp của nông dân”7. “Tất cả những việc Đảng và Chính phủ đề ra đều nhằm cải thiện đời sống cho nhân dân. Làm gì mà không nhằm mục đích ấy là không đúng”8. Mục tiêu này đã được Bác gắn với chủ nghĩa xã hội. Trong mọi định nghĩa về chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đều gắn với mục đích của nó đó là “không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân”9. Điều này cho thấy một sự gắn bó chặt chẽ giữa chủ nghĩa xã hội và phúc lợi trong quan niệm của Bác về phúc lợi xã hội10.
Đối với Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là sự công bằng trong hoạt động và hưởng thụ, đồng thời phúc lợi cho những nhóm người yếu thế: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”11. “Trừ các cụ già yếu nhiều tuổi, những người thương tật, phụ nữ có thai, các cháu bé, còn ai có sức lao động mà trốn trách nhiệm, lười biếng không đi chống hạn sẽ phạt. Còn phạt như thế nào sẽ do khu, tỉnh, huyện quy định cho đúng mức”12.
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chỉ rõ trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đối với phúc lợi của con người và xem đây là một nội dung công tác chính trong mọi giai đoạn của cách mạng, nhất là trong giai đoạn đồng thời tiến hành hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng. Trong bài nói tại Hội nghị tổng kết công tác của Bộ Công nghiệp, Bác chỉ ra ý nghĩa của phúc lợi đối với nhân dân và kết luận: “chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi... Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân. Phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”13. Mặc dù nhấn mạnh đến trách nhiệm lãnh đạo và chăm lo của Đảng đến phúc lợi, song Bác cũng khẳng định rằng phúc lợi là sự nghiệp của chính người dân vì vậy người dân “không nên ỷ lại, mà phải tự lực cánh sinh...Việc cải thiện đời sống cho nhân dân cũng phải do nhân dân tự giúp lấy mình là chính”14.
Bước sang năm 1965, sức khỏe của Chủ tịch Hồ Chí Minh có phần giảm sút, Người bắt đầu viết Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Bản Di chúc là một phác thảo toàn diện những công việc phải làm sau khi kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, từ việc thống nhất đất nước đến kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội sau chiến tranh, việc chăm lo cho con người...
Trong Di chúc, Người nhấn mạnh sau khi thắng lợi: “Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”15. Bác đã đề cập đến lĩnh vực y tế và giáo dục cho nhân dân, kế hoạch xây dựng lại thành phố và làng mạc đẹp đẽ, đàng hoàng hơn trước chiến tranh. Khôi phục và mở rộng các ngành kinh tế. Phát triển công tác vệ sinh, y tế. Sửa đổi chế độ giáo dục cho hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, như phát triển các trường nửa ngày học tập nửa ngày lao động.
Tiếp theo, trong Di chúc Bác đã đề cập đến các định hướng chính sách cơ bản cho mọi tầng lớp dân cư như đối với những người đã có cống hiến trong chiến tranh như các thương binh, gia đình thương binh, liệt sỹ. Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chú ý đến cả những người lầm lỗi cần sự giúp đỡ xã hội: “Đối với những nạn nhân của chế độ xã hội cũ, như trộm cắp, gái điếm, cờ bạc, buôn lậu… thì Nhà nước phải dùng vừa giáo dục, vừa phải dùng pháp luật để cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện”16.
Như vậy, trong kho tàng tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có một hệ thống các luận điểm về chính sách xã hội hay nói cách khác là những quan điểm phúc lợi và an sinh xã hội. Những quan điểm này bắt nguồn từ tấm lòng nhân ái, yêu nước, thương dân của Người. Chính vì vậy, những chính sách xã hội do Người đề xướng và chỉ đạo thực hiện thấm đượm tính nhân văn sâu sắc. Dưới sự chủ trương mang tính lý luận và định hướng cũng như dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua thời gian, Nhà nước Việt Nam đã dần dần hình thành nên hệ thống phúc lợi quốc gia mang đậm nét tư tưởng xã hội của Hồ Chí Minh.
Sau hơn 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội... đời sống của nhân dân không ngừng được nâng cao và một trong những yếu tố quan trọng góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu của Đảng chính là vấn đề hoạch định và thực hiện các chính sách xã hội. Bên cạnh những mặt đã đạt được thì trên thực tế nhiều chính sách về giáo dục, y tế, văn hóa... chưa được cụ thể hóa, chưa phù hợp với cơ chế kinh tế và chưa theo kịp với yêu cầu của xã hội, còn nhiều lúng túng trong tổ chức thực hiện, do đó việc tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; kết quả xóa đói, giảm nghèo chưa thật vững chắc; chất lượng giáo dục và đào tạo còn thấp; quản lý nhà nước về một số lĩnh vực như y tế, thể thao... còn yếu kém. Trước thực trạng đó, việc nghiên cứu và làm rõ hơn tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề chính sách xã hội là một trong những việc làm cần thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn nhằm giải đáp cho những vấn đề đời sống nhân dân mà thực tiễn đời sống kinh tế, xã hội đang đặt ra hiện nay./.
ThS. Cù Thị Minh
Phòng Tuyên truyền, Giáo dục
Theo ditichhochiminhphuchutich.gov.vn
Đức Lâm (st)
Chú thích:
1. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.86.
2. Cương lĩnh xây dựng đất nước. Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.13.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t4, tr.64.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t4, tr.175.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t4, tr.258.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t4, tr.33.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t7, tr.433.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t10, tr.310.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, t12, tr.604.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 3/10/1960, t12, tr.693.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t11, tr.404.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t11, tr.234.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t9, tr.518.
14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t10, tr.310.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t15, tr.612.
16. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, t15, tr.616.