Cách đây 74 năm, ngày 19-8-1945, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng lên làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lật đổ chế độ thực dân - phong kiến, giành lại độc lập dân tộc, xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, xây dựng xã hội do nhân dân làm chủ theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin, mở ra một thời đại mới cho dân tộc ta - thời đại độc lập dân tộc gắn liền với chế độ dân chủ, công bằng, văn minh.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công - sự kiện hiếm có trong lịch sử Việt Nam và nhân loại

Có thể nói, trong lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử Việt Nam nói riêng, hiếm có cuộc cách mạng xã hội nào lại đáp ứng cùng một lúc ba nhu cầu lịch sử của một dân tộc như Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là: (1). Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành lại độc lập dân tộc. (2). Xóa bỏ chế độ thuộc địa nửa phong kiến, giải phóng xã hội, xây dựng hệ thống chính trị dân chủ do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo từ trung ương đến cơ sở. (3). Xây dựng Nhà nước với Hiến pháp, chế định quyền công dân và tôn trọng quyền con người cho nhân dân Việt Nam.

Tại hội nghị đại biểu toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào (ngày 13-8-1945), Trung ương Đảng đã nhận định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi” và quyết định phải: “Kịp thời hành động, không để bỏ lỡ cơ hội”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chỉ trong 15 ngày (từ ngày 16-8 đến ngày 02-9-1945), các lực lượng cách mạng đã lật đổ chính quyền thực dân và phong kiến tay sai, xây dựng hệ thống chính trị mới trong cả nước. Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Theo đó, quyền công dân, quyền con người của nhân dân ta có sự thay đổi mang tính bước ngoặt lịch sử, từ thân phận nô lệ, lầm than đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình.

Khác với các văn kiện lập quốc trong những thời kỳ lịch sử trước đó, như: “Nam quốc sơn hà” (thế kỷ XI), “Bình Ngô đại cáo” (thế kỷ XV) dựa trên truyền thống yêu nước của dân tộc, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ kế tiếp trên truyền thống lịch sử của nhân dân Việt Nam mà còn dựa trên tính chất của thời đại. Đó là, các dân tộc có quyền giành lại độc lập, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ; đồng thời, có trách nhiệm bảo đảm các quyền công dân và quyền con người. Trong Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lại bản Tuyên ngôn độc lập (năm 1776) của nước Mỹ, bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (năm 1791) để “suy rộng ra”: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ngay sau khi giành được chính quyền, theo quyết định của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, một quy trình chính trị lập hiến, lập pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng ta lãnh đạo đã ngay lập tức được thực hiện. Ngày 01-01-1946, Chính phủ Liên hợp lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập. Trong chính phủ Liên hợp có nhiều nhân sĩ, trí thức, trong đó có cả một số người từng làm việc cho chính quyền cũ (như Nguyễn Hải Thần, Vũ Đình Hòe, Nguyễn Văn Tố) cũng được mời tham gia. Ngày 06-01-1946, tiến hành Tổng tuyển cử trong cả nước. Cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín - cho đến nay, đây vẫn là nguyên tắc công bằng và hiện đại nhất của cộng đồng thế giới. Ngày 06-01-1946, Quốc hội đầu tiên của nước ta ra đời. Công việc soạn thảo Hiến pháp được khẩn trương triển khai, Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp làm Trưởng Ban soạn thảo. Ngày 09-11-1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam mới được công bố. Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp hiện đại, không chỉ vào thời điểm ra đời mà cho đến nay vẫn giữ nguyên tính chất mới mẻ về nhiều phương diện, kể cả kỹ thuật lập pháp. Trong đó, không chỉ quy định các quyền công dân trên tất cả các lĩnh vực; quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của người Việt Nam được ghi nhận, mà còn nhiều quyền con người, kể cả quyền của người nước ngoài sống ở Việt Nam cũng được Nhà nước ta bảo hộ.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chúng ta đã xây dựng một Nhà nước dân chủ, pháp quyền trên nguyên tắc: Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Có thể nói, hiếm có một cuộc cách mạng nào, đảng chính trị nào lại có đủ niềm tin vào con đường cách mạng của mình, ý thức về vai trò của pháp quyền và sự tôn trọng quyền của nhân dân như Đảng Cộng sản Việt Nam. Đảng không duy trì lâu dài cơ quan khởi nghĩa do Đảng nắm toàn quyền, mà đã quyết định thiết lập một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” trong cả nước. Đảng ta chỉ giữ quyền lãnh đạo, không trực tiếp quản lý nhà nước. Về đối ngoại, khi đó quân Đồng minh do Mỹ, Anh, Pháp cầm đầu, sau khi đánh bại chủ nghĩa phát-xít, họ vẫn chủ trương duy trì và phân chia lại thuộc địa cũ, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, thắng lợi nhanh chóng của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự hoàn thiện của chế độ xã hội, Nhà nước ta, đã khiến cho lực lượng Đồng minh, chủ yếu là Anh, Pháp, Mỹ có mặt ở Đông Dương phải ngỡ ngàng, đành chấp nhận rút quân. Như vậy, chế độ xã hội mới, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945 không phải là thành tích “khai hóa” của “mẫu quốc”, cũng không phải là “tặng phẩm” của các nước Đồng minh như với một số quốc gia, mà là thành quả từ cuộc vận động cách mạng suốt 15 năm của Đảng Cộng sản Việt Nam (1930 - 1945); đồng thời, là kết quả của chiến lược, sách lược cách mạng đúng đắn, quyết đoán của Đảng ta và sự hy sinh của chiến sĩ, đồng bào, đảng viên trong suốt quá trình cách mạng đầy khó khăn, gian khổ để thay đổi vận mệnh của dân tộc. Dân tộc có được độc lập thì con người mới có thể có tự do, hạnh phúc; không thể có được quyền con người, quyền công dân khi quyền độc lập của dân tộc bị chà đạp. Đó cũng là tư tưởng, mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định với cả thế giới ngay khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời và đứng vào hàng ngũ tiên phong của các dân tộc đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 tạo tiềm năng to lớn để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc - tiền đề quan trọng để bảo đảm quyền công dân, quyền con người

Đi theo con đường cách mạng do Đảng ta đứng đầu và Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn dắt, dựa trên những giá trị chính trị, tư tưởng của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dân tộc ta đã bảo vệ vững chắc thành quả của cuộc cách mạng đó. Chúng ta đã tiến hành hai cuộc kháng chiến, đánh bại chủ nghĩa thực dân cũ (thực dân Pháp); thực dân mới (đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai); đồng thời, làm trọn nghĩa vụ quốc tế cao cả - giúp hai nước: Lào, Cam-pu-chia giành độc lập, xây dựng xã hội mới.

Kiên trì với mục tiêu “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đến nay, chúng ta đang xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền “của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ một quốc gia nông nghiệp sản xuất nhỏ, trải qua 30 năm chiến tranh, bị đế quốc Mỹ bao vây cấm vận, song đến nay, Việt Nam đã trở thành nước có mức thu nhập bình quân đầu người ở mức trung bình. Năm 2018, tăng trưởng GDP đạt 7,08%, thu nhập bình quân đầu người đạt 2.590 USD. Thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, có nguyên tắc, đến nay, Việt Nam đã quan hệ ngoại giao với 189 nước thuộc mọi châu lục và quan hệ bình thường với tất cả nước lớn, các nước Ủy viên Thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trong đó, có 12 đối tác chiến lược, bao gồm 5 nước ASEAN và các nước Anh, Pháp, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ô-xtrây-li-a. Việt Nam cũng đã ký Hiệp định đối tác toàn diện với Hoa Kỳ; vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được nâng cao. Ngày 07-6-2019, Việt Nam đã lần thứ hai trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2020 - 2021) với sự ủng hộ gần như tuyệt đối của các nước (192/193 phiếu).

Sự phát triển về kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại,... đã tạo tiền đề quan trọng cho việc bảo đảm các quyền công dân và quyền con người ở Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã quy định đầy đủ các quyền công dân và quyền con người. Trong điều kiện internet, mạng xã hội phát triển nhanh chóng, pháp luật Việt Nam đã “cập nhật” để bảo đảm tốt nhất những quyền công dân, quyền con người (Luật Báo chí, Luật Tiếp cận thông tin, Luật An ninh mạng,…); trong đó, có bảo đảm quyền tự do tư tưởng của mọi người, kể cả quyền tự do sử dụng internet, mạng xã hội. Đến nay, Việt Nam đã hoàn thành các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ vào năm 2015 và tham gia hầu hết các công ước quốc tế cơ bản về quyền con người, như: Công ước về các quyền dân sự và chính trị (năm 1966); Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ (năm 1979); Công ước về Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (năm 1969); Công ước về Quyền trẻ em (năm 1989); Công ước về Quyền của người khuyết tật (năm 2006); Công ước Chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người, v.v.

V.I.Lênin từng nói về ý nghĩa của Cuộc cách mạng Tháng Mười năm 1917 rằng: “Bao giờ và trong thời hạn nào sẽ hoàn thành sự nghiệp (của cuộc cách mạng) ấy, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng, chính là băng đã tan, đường đã mở, lối đã vạch ra rồi”1. Đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta cũng vậy. Mục tiêu độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” vẫn đang ở phía trước, nhưng nhân dân ta đã có được những tiền đề và điều kiện căn bản để đạt mục tiêu ấy. Đó là chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và đó còn là di sản của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

TS. Cao Đức Thái

Theo Tạp chí Quốc phòng toàn dân

Đức Lâm (st)

1. V.I. Lênin - Toàn tập, Tập 44, Nxb Tiến Bộ, M. 1978, tr. 178.

Bài viết khác: