Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết bao tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng giải phóng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn, nhưng không ai có được sự nghiệp lừng lẫy như Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, không ai có được tầm vóc thời đại, được loài người tiến bộ ca ngợi và thừa nhận như Hồ Chí Minh.

Thời gian sẽ trôi qua, trăm năm, ngàn năm… thời thế, cuộc sống xã hội rồi sẽ đổi thay lớn, song tên tuổi, sự nghiệp và thời đại của Người vẫn mãi là biểu tượng soi sáng của dân tộc Việt Nam văn hiến; sẽ mãi trở thành hệ giá trị văn hóa của loài người.

Lịch sử cách mạng Việt Nam 88 năm qua gắn liền với tên tuổi và sự nghiệp, thân thế và cuộc đời, tư tưởng và đạo đức của người anh hùng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc của cách mạng Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới. Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của Hồ Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến trọn đời mình cho cách mạng Việt Nam. Trên cơ sở một vốn văn hóa Đông - Tây sâu sắc và sự dũng cảm hy sinh, một vốn tri thức lịch sử và thực tiễn rộng lớn, một linh khiếu chính trị, năng lực tổng kết và dự báo tương lai, Người đã kiên trì học tập, từng bước vươn lên đỉnh cao của trí tuệ thời đại để có được tầm nhìn xa, trông rộng của một “phượng hoàng đại ngàn”.

Người đã tìm ra đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản; đó là con đường kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, từ đó chấm dứt cuộc khủng hoảng về đường lối, mở ra một thời đại mới vô cùng oanh liệt trong lịch sử dân tộc, thời đại Hồ Chí Minh.

Người đã có công đầu trong việc truyền bá và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, vận dụng thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin để đánh thức các tiềm năng tinh thần truyền thống Việt Nam, bồi dưỡng những nhân tố bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Người đã xây dựng những tiền đề tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra đời của một chính đảng giai cấp công nhân ở Việt Nam và đã thống nhất các tổ chức cộng sản đầu tiên ở trong nước để sáng lập nên Đảng Cộng sản Việt Nam. Dù ở nước ngoài hay ở trong nước, Người luôn luôn chăm sóc, giáo dục, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta vượt qua mọi thử thách khó khăn, đưa cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi to lớn như ngày nay.

Người đã khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Châu Á, người đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân”.

Người đã dày công vun đắp nên khối đại đoàn kết dân tộc vững chắc làm nền tảng sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù. Tư tưởng lớn của Người được diễn đạt cô đọng trong khẩu hiệu chiến lược “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công” đã trở thành nguồn cổ vũ, động viên thành ngọn cờ tập hợp, vẫy gọi đối với mọi người Việt Nam yêu nước trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Người là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, đã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, làm nên những cuộc chiến công vang dội, được cả loài người khâm phục và ca ngợi.

Người là nhà chiến lược thiên tài đã cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, mở ra thời kỳ sụp đổ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân cũ và làm thất bại một bước chủ nghĩa thực dân mới, góp phần tác động sâu sắc vào tiến trình lịch sử thế giới trong thế kỷ XX.

Người đã khai phá con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước nông nghiệp lạc hậu, chưa qua chủ nghĩa tư bản, bị chiến tranh tàn phá, từng bước làm cho “người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”, để đi tới một xã hội dân giàu, nước mạnh, trong đó dân là chủ, dân làm chủ và cán bộ nhà nước là “công bộc” của dân.

Người là nhà giáo dục vĩ đại, đã định hướng cho sự ra đời một nền văn hóa - đạo đức mới, một xã hội mới với nhân cách mới, góp phần cùng với Đảng đào tạo ra một thế hệ chiến sĩ cách mạng kiểu mới, từ những lãnh tụ lớp đầu cho đến đội ngũ cán bộ, chiến sĩ hoạt động ở cơ sở, tất cả đều một lòng một dạ sống, chiến đấu theo tấm gương sáng ngời của Người: Tận trung với nước, tận hiếu với dân, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, khiêm tốn, giản dị,… và chính họ đã góp phần đưa ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh đến thắng lợi rực rỡ như ngày nay. Tư tưởng chiến lược “trăm năm trồng người” và “bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau” mãi là vấn đề rất hệ trọng và rất cần thiết với mỗi dân tộc.

Người là nhà văn hóa kiệt xuất không chỉ vì Người đã sáng tạo ra một thời đại mới, một nền văn hóa mới trong lịch sử dân tộc mà còn vì Người đã có những đóng góp có giá trị vào sự phát triển của văn hóa nhân loại. Đúng như Nghị quyết của UNESCO có viết: “Những tư tưởng của Người là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng định bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho việc thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau”.

Người là một nhà đạo đức học lỗi lạc, đã có những cống hiến đặc sắc vào sự phát triển của tư tưởng đạo đức học mácxít. Cả cuộc đời của Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức và Người luôn coi “đạo đức là gốc của người cách mạng”, Người luôn chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho con người Việt Nam mới: Trung với nước, yêu thương con người, sống có tình có nghĩa, có tinh thần quốc tế trong sáng,… Người là biểu tượng, là tinh hoa của tinh thần khoan dung, nhân ái Việt Nam.

Người là một tấm gương lớn về đối thoại, hợp tác để cùng phát triển. Người đặt nền móng cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại. Người phát huy tinh thần hòa hiếu của dân tộc, “lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy trí nhân thay cường bạo”, khôn khéo vận dụng sách lược “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Người luôn theo đuổi chính sách ngoại giao hòa bình, chủ trương giải quyết mọi mâu thuẫn, xung đột bằng đàm phán, thương lượng. Người thường xuất phát từ những chân lý phổ biến, “những lẽ phải không chối cãi được”, để truy tìm cái chung, cái đồng nhất mà hai bên đều có thể chấp nhận được.

Công lao to lớn, sự nghiệp vĩ đại của Hồ Chủ tịch đã đưa Người lên địa vị người anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng kiệt xuất, nhà lý luận sáng tạo, nhà thực hành kiểu mẫu, nhà chiến lược, nhà tổ chức thiên tài, nhà giáo dục, nhà văn hóa kiệt xuất, trở thành một “huyền thoại” của cách mạng Việt Nam và các dân tộc trên thế giới. Di sản “tư tưởng và đạo đức cao cả của Người mãi mãi soi sáng và nâng cao tâm hồn chúng ta. Ngọn cờ chói lọi của Người mãi mãi chỉ lối cho chúng ta tiến lên phía trước”. Thế giới luôn đổi thay, nhưng di sản Hồ Chí Minh còn sống mãi, đúng như lời phát biểu của Chủ tịch Hội đồng Hòa bình thế giới Rômét Chanđra: “Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hòa bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao. Ở bất cứ đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống đói nghèo, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao”; từ đó chân trời càng mở rộng cho đà tiến cao xa hơn nữa, trên con đường phát triển vô hạn của các dân tộc và con người. Di sản của Người mang lại những giá trị có tầm thời đại, góp phần vào giải quyết những vấn đề đang đặt ra cho nhân loại hiện nay: Độc lập dân tộc, dân chủ, nhân ái, khoan dung, hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển, gợi ra những phương hướng, biện pháp giúp loài người đi tới một tương lai tốt đẹp.

TS. Lê Trung Kiên

Bộ môn lý luận chính trị, Đại học Phòng cháy chữa cháy

Theo http://www.khuditichkimlien.gov.vn/

Đức Lâm (st)

Bài viết khác: