Chỉ mục bài viết

  1. Ngày 11/3: “Là chủ của tương lai, thanh niên không thể không có lý tưởng cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng”(1).

Câu trích trên là một phần nội dung trả lời phỏng vấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh dành cho Máccôm Samông (Malcolm Salmon) phóng viên Đông Nam Á của báo Australia Tribune và báo Guardian. Khi được hỏi: “Những hoạt động của các chính khách ở nhiều nước thường không cổ vũ gì lớp thanh niên muốn có một cuộc đời hoạt động chính trị. Xin Chủ tịch đặc biệt cho những độc giả thanh niên của chúng tôi biết ý nghĩa và giá trị của một cuộc đời hoạt động chính trị, cách mạng”, Người trả lời: “Tương lai thuộc về thanh niên. Tương lai là cách mạng luôn luôn tiến lên. Là chủ của tương lai, thanh niên không thể không có lý tưởng cao cả. Vì vậy thanh niên phải có cuộc sống chính trị tích cực và cách mạng”.

Qua câu hỏi và nội dung trả lời của Bác, chúng ta thấy Người nhìn nhận, đánh giá rất cao vai trò, tiềm năng của thanh niên nói chung, thanh niên Việt Nam nói riêng, nhất là trong bối cảnh đất nước đang có chiến tranh, bị chia cắt hai miền Nam - Bắc. Trong hoàn cảnh ấy, tương lai của đất nước Việt Nam là phải thống nhất hòa bình và lý tưởng cao cả của thanh niên là phải thấu hiểu nỗi đau non sông chia cắt, phải có hành động cách mạng thiết thực đóng góp cho sự nghiệp xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam.    

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, lớp lớp thanh niên trên cả hai miền Nam - Bắc đi vào cuộc đấu tranh cách mạng dưới ngọn cờ lý tưởng của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh với khí thế thấm đẫm tinh thần của sức trẻ “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước,/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai”, thể hiện quyết tâm cao độ giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất nước nhà. Một bộ phận đông đảo thanh niên trở thành “Bộ đội Cụ Hồ”, trực tiếp chiến đấu với quân thù, lập những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào”, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân hoàn thành sự nghiệp vẻ vang chống Mỹ, cứu nước. Sau này, trong Di chúc Bác căn dặn: Đoàn viên và thanh niên ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ. Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội "vừa hồng", "vừa chuyên".

Hiện nay, câu nói của Hồ Chí Minh trên đây vẫn nguyên giá trị. Tuổi trẻ - thanh niên quân đội cần phải tiếp tục gương mẫu học tập, “rèn đức, luyện tài”, nâng cao nhận thức chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, với Tổ quốc; luôn có tinh thần cảnh giác cách mạng cao, làm chủ bản thân, làm chủ khoa học kỹ thuật, vũ khí trang bị, quyết tâm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần đưa sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đi đến thắng lợi.

  1. Ngày 12/3: “Toàn thể đảng viên và cán bộ từ Nam đến Bắc, bất kỳ mới, cũ, bất kỳ ngành nào, bất kỳ trong quân đội hay là ở địa phương, bất kỳ ở nông thôn hay là ở thành thị, phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của mình; phải thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ”(2).

Đoạn trích trên là một phần nội dung bài phát biểu Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phiên Bế mạc Hội nghị lần thứ bảy (Khóa II) mở rộng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, ngày 12/3/1955. Hội nghị diễn ra trong bối cảnh “nước ta tạm thời chia ra hai miền, miền Bắc chưa củng cố, miền Nam đang ở trong tình trạng khó khăn, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai tìm mọi cách phá hoại Hiệp định Giơnevơ, chúng gây ra nạn di cư, ta thì gặp nạn đói kém, Miên và Lào gặp khó khăn, tình hình thế giới gay go”. Do vậy, yêu cầu đặt ra lúc này là phải đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, phải thống nhất tư tưởng, mở rộng dân chủ nội bộ, mở rộng tự phê bình và phê bình. “… Toàn thể đảng viên và cán bộ từ Nam đến Bắc, bất kỳ mới, cũ, bất kỳ ngành nào, bất kỳ trong quân đội hay là ở địa phương, bất kỳ ở nông thôn hay là ở thành thị, phải đoàn kết chặt chẽ, nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của mình; phải thống nhất tư tưởng, thống nhất hành động, quyết tâm làm tròn nhiệm vụ”. Vấn đề xây dựng, củng cố mối đoàn kết thống nhất trong Đảng là một nguyên tắc bất biến. Khi nào Đảng ta thực hiện tốt việc đoàn kết, thống nhất nội bộ, thì khi đó có đường lối, quan điểm lãnh đạo cách mạng đúng đắn, sáng suốt.

Đặt trong bối cảnh tình hình xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XII), nội dung phát biểu bế mạc của Bác Hồ tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy vẫn mang tính thời sự. Trên thực tế, Đảng ta luôn kiên định thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng theo nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng. Là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng và nhân dân, quân đội luôn nêu cao tinh thần “đoàn kết, thống nhất” trong nội bộ và với nhân dân; đó là cơ sở nền tảng để quân đội làm tròn nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong mọi tình huống.

  1. Ngày 13/3: “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ”(3).

Câu nói trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói chuyện với đồng bào và cán bộ tỉnh Thái Nguyên vào ngày 13 tháng 3 năm 1960, trong thời điểm miền Bắc đang tiến hành khôi phục, cải tạo và bước đầu phát triển nền kinh tế, văn hóa xã hội chủ nghĩa, quân và dân miền Nam đang đẩy mạnh đấu tranh chính trị, tiến tới phát động cao trào cách mạng mới. Quan điểm trên đây của Người cùng với đường lối, chủ trương đề ra tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (9-1960) đã trở thành định hướng, phương châm, mục tiêu hành động của các tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng miền Bắc theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa, củng cố, tăng cường sức mạnh của hậu phương lớn làm tròn nghĩa vụ đối với tiền tuyến lớn miền Nam. Dưới ánh sáng của Đại hội III, quân và dân ta thực hiện đồng thời hai chiến lược cách mạng: Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, hướng tới mục tiêu giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội là nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; sự nghiệp đấu tranh cách mạng để giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và xây dựng chế độ xã hội mới, giàu mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh xét đến cùng là vì hạnh phúc, vì sự phát triển toàn diện của con người. Ngược lại, con người là lực lượng chính của sự nghiệp đấu tranh cách mạng, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất và là chủ thể sáng tạo nên những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội. Và 15 năm sau, quân và dân ta đã hoàn thành sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (4-1975), mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc - kỷ nguyên độc lập, hòa bình, thống nhất cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

            Trong bối cảnh quốc tế và khu vực hiện nay có nhiều chuyển biến mau chóng, phức tạp, ý nghĩa của câu nói “Chủ nghĩa xã hội là làm cho mọi người dân được ấm no, hạnh phúc và học hành tiến bộ” vẫn là mục tiêu lý tưởng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta hướng tới.

Quân đội nhân dân Việt Nam là đội quân kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo luôn quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, phấn đấu thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì dân, sẵn sàng chiến đấu, hy sinh vì chủ nghĩa xã hội, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, ý thức tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng đất nước, xây dựng quân đội; đồng thời đẩy mạnh công tác dân vận, chăm lo xây dựng cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, tham gia lao động sản xuất, phát triển kinh tế xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo.

  1. Ngày 14/3: “Các chú sắp ra mặt trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn, nhưng rất vinh quang. Các chú vừa được chỉnh quân chính trị và chỉnh huấn quân sự và đã thu được nhiều thắng lợi về tư tưởng và chiến thuật, kỹ thuật. Nhiều đơn vị đã đánh thắng trên các mặt trận. Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới”.

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi cán bộ và chiến sĩ ở mặt trận Điện Biên Phủ(4). Lời kêu gọi được đăng trên báo Quân đội nhân dân, xuất bản tại mặt trận, số 131, ngày 14/3/1954, vào thời điểm chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ vừa mở màn (ngày 13/3).

Ngay trong trận mở màn, quân ta đã giành được thắng lợi quan trọng, với đòn tiến công tiêu diệt cứ điểm phòng thủ vòng ngoài Him Lam, đồng thời phát triển sâu vào trung tâm đề kháng của quân Pháp ở tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Lời kêu gọi có tác động mạnh mẽ, động viên kịp thời tinh thần của các cán bộ, chiến sỹ để họ khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, tiến lên phá vỡ hoàn toàn tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành mục tiêu độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc.

Hiện nay, đất nước ta đã hoàn toàn giải phóng, non sông thu về một mối, cả nước vững bước đi lên hội nhập sâu rộng với nền kinh tế, chính trị thế giới, thì ý nghĩa lời kêu gọi của Bác vẫn còn nguyên giá trị, nhắc nhở mọi cán bộ, chiến sỹ dù trên bất kì cương vị nào, công việc gì phải luôn quán triệt tinh thần “thắng không kiêu, bại không nản”, không ngừng phát huy thành công, nỗ lực phấn đấu, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ được giao, góp công, góp sức cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong giai đoạn mới, tình hình thế giới, khu vực tác động đến nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, đặt ra yêu cầu phải tập trung xây dựng Quân đội nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân; có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu ngày càng cao, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tổ chức biên chế hợp lý, có trang bị từng bước hiện đại, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống, thực sự là lực lượng nòng cốt bảo vệ Tổ quốc XHCN. Duy trì nghiêm các chế độ SSCĐ, quản lý chặt chẽ vùng trời, vùng biển và hải đảo; tăng cường hơn nữa công tác quản lý biên giới; quan tâm nâng cao phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ cho cán bộ, chiến sỹ; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội nhân dân trong điều kiện mới.

  1. Ngày 15/3: "Giặc Mỹ đã thua to, nhưng chúng vẫn ngoan cố chưa chịu từ bỏ những âm mưu tàn bạo và quỷ quyệt. Quân và dân ta đang thắng lớn, càng phải kiên quyết chiến đấu cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn"(5).

Lời khẳng định trên là một phần nội dung bức thư khen Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi quân và dân Hải Phòng nhân sự kiện quân và dân ở đây bắn rơi chiếc máy bay thứ 200 của Mỹ vào ngày 06 tháng 3 năm 1968.

Lời thư của Bác ngợi khen thành tích của quân và dân Hải Phòng cũng chính là lời ngợi khen đối với thành tích của quân và dân miền Bắc nói chung trong quá trình chiến đấu chống chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân của đế quốc Mỹ. Trong những tháng năm đánh Mỹ, nhân dân hậu phương miền Bắc thực hiện khẩu hiệu "tay cày, tay súng", "tay búa, tay súng", vừa đẩy mạnh sản xuất vừa triển khai thế trận chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Địa phương nào, nhà máy xí nghiệp nào lập nhiều thành tích đều được Bác Hồ gửi thư khen ngợi, động viên, biểu dương thành tích sản xuất, chiến đấu, chi viện chiến trường miền Nam. Những bức thư khen của Bác như tiếp thêm động lực để quân và dân Hải Phòng nói riêng, quân và dân miền Bắc nói chung “ra sức thi đua với quân và dân miền Nam anh hùng, nâng cao cảnh giác, sản xuất tốt hơn nữa, chiến đấu giỏi hơn nữa, sát cánh cùng đồng bào cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”.

Ngày nay, Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng việc khen thưởng, biểu dương những địa phương, tập thể, đơn vị, cá nhân có thành tích trong lao động sản xuất, học tập, công tác nhằm kịp thời động viên, khích lệ tinh thần thi đua, nhân rộng điển hình tiên tiến, làm cho mọi người nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa, giá trị của công tác động viên như lúc sinh thời Bác luôn dành sự quan tâm đặc biệt. Những gương “người tốt, việc tốt” được tập hợp, in thành sách, tạo ra tủ sách “người tốt, việc tốt”. Học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, chúng ta cần hiểu đúng, hiểu rõ, có hành động thiết thực quan tâm, chăm lo những tập thể, cá nhân lập nhiều thành tích; tạo thêm động lực, xây dựng điển hình để nhân rộng “giá trị” của “người tốt, việc tốt”.

Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, rèn luyện; là một tập thể, một môi trường đặc biệt để mỗi người phấn đấu, rèn luyện, trưởng thành. Với chức năng là đội quân chiến đấu, đội quân sản xuất, đội quân công tác, quân đội đã lập nhiều chiến công oanh liệt, cùng toàn dân đánh thắng “hai đế quốc to” (thực dân Pháp và đế quốc Mỹ), bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Trong chiến đấu, công tác, hàng nghìn đơn vị, hàng vạn cán bộ, chiến sỹ quân đội đã lập chiến công, thành tích đặc biệt xuất sắc, được Đảng, Nhà nước phong tặng, truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân và các phần thưởng cao quý khác… Những tấm gương ấy luôn sống động, là niềm tự hào đối với mỗi đơn vị, mỗi cán bộ, chiến sỹ. Trong điều kiện đất nước hòa bình, dưới tác động của tình hình chính trị, xã hội phức tạp hiện nay, quân đội luôn quan tâm xây dựng phong trào thi đua trong học tập, rèn luyện, huấn luyện, làm chủ khoa học công nghệ, vũ khí trang bị… Đó là một động lực để quân đội luôn vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, làm tròn trọng trách bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, bảo vệ nhân dân và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

  1. Ngày 16/3: "Dân ta yêu tự do, độc lập, trọng hòa bình, tín nghĩa(6).

Ngày 16/3/1946, tại Hà Nội, trước sự chứng kiến của đại diện các nước Trung Hoa dân quốc, Mỹ và Anh, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Đảng, Nhà nước và nhân dân ký bản Hiệp định sơ bộ với Chính phủ Cộng hòa Pháp. Theo đó, Chính phủ Cộng hòa Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do, có chính phủ, nghị viện, quân đội, tài chính của riêng mình và là một phần tử trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp; Việt Nam chấp nhận cho 15.000 quân Pháp vào miền Bắc, thay thế quân đội Trung Hoa dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội phát xít Nhật Bản, sau đó sẽ phải rút hết trong 5 năm. Sự chấp nhận và nhân nhượng có nguyên tắc của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở một tình thế cụ thể đã làm cho cục diện quan hệ Trung Hoa dân quốc - Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Cộng hòa Pháp thay đổi. Nhân dân Việt Nam có thêm thời gian hòa bình để chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc kháng chiến mà theo nhận định của Đảng và Nhà nước thì tất yếu sẽ xảy ra.

Mặc dù bản Hiệp định sơ bộ tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho cuộc đấu tranh ngoại giao của Việt Nam, nhưng dư luận các đảng phái quốc gia và thân nước ngoài như Việt Cách, Việt Quốc vẫn lên tiếng phản đối, một bộ phận nhân dân còn băn khoăn. Trước tình hình đó, ngày 16 tháng 3 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh công bố Lời kêu gọi nhân dân thi hành đúng Hiệp định sơ bộ Việt - Pháp với lòng mong muốn: “Quốc dân giữ lòng kiên quyết nhưng bình tĩnh, các báo thì bình luận một cách chính đáng, những lời lẽ nên cân nhắc... Chúng ta phải tỏ cho họ biết rằng “dân ta yêu tự do, độc lập, trọng hòa bình, tín nghĩa”. Đồng thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trình bày vắn tắt lập trường, đường lối chính trị của Đảng, Chính phủ trước đồng bào cả nước, và động viên đồng bào cần phải biết chịu đựng hy sinh để mưu tính sự nghiệp lớn.

Trong thời điểm ngặt nghèo của dân tộc, việc ký Hiệp định sơ bộ là một quyết định sáng suốt, một mẫu mực sách lược trong đấu tranh ngoại giao, tận dụng thời cơ, nhân nhượng có nguyên tắc của Đảng và Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu.

Ngày nay, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn độc lập, thống nhất và vững bước trên con đường đổi mới và hội nhập, mở rộng và phát triển đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế. Lịch sử quan hệ Việt - Pháp sau những thăng trầm, quanh co của lịch sử đã được khép lại, và mở ra một chương mới với tình hữu nghị, hợp tác và phát triển. Những bài học thực tiễn trong quá trình đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là cơ sở vững chắc để một dân tộc luôn yêu tự do, hòa bình và công lý, cùng nhau kiên trì, đồng tâm bảo vệ nền độc lập, thống nhất quốc gia, cũng như trong công cuộc xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

  1. Ngày 17/3: "Muốn chống tham ô, lãng phí, phải chống bệnh quan liêu. Nhưng tiến hành phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có lãnh đạo, có trọng tâm(7).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định quan liêu là một trong những căn bệnh rất nguy hại đến đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Theo Bác Hồ, “quan liêu là xa rời quần chúng, không đi sâu sát, không hiểu lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ mình. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng, sợ phê bình và tự phê bình”. Trong bài nói chuyện với cán bộ, chiến sỹ đảng viên tại buổi phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Muốn chống tham ô, lãng phí, phải chống bệnh quan liêu. Nhưng tiến hành phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có lãnh đạo, có trọng tâm. Những cán bộ mắc phải bệnh quan liêu thì “có mắt mà không thấu suốt, có tai mà không nghe thấu, có chế độ mà không giữ đúng, có kỷ luật mà không nắm vững. Kết quả là những người xấu, những cán bộ kém tha hồ tham ô, lãng phí”. Như vậy bệnh quan liêu đã ấp ủ, dung túng, che chở cho nạn tham ô, lãng phí. Ở đâu có bệnh quan liêu nặng thì ở đó tham ô, lãng phí nhiều. Quan liêu tiếp tay cho cán bộ yếu kém, thỏa hiệp với những kẻ xấu làm tổn hại tới sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, làm băng hoại đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên. Quan liêu, mệnh lệnh vô hình trở thành một bức tường ngăn cách, tách rời Đảng, Chính phủ với nhân dân, tách rời lợi ích của nhân dân với chính sách của Đảng và Nhà nước.

Để chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả, theo Người, tiến hành phải có chuẩn bị, có kế hoạch, có lãnh đạo, có trọng tâm. Trước hết, cần làm cho mọi người thấy rõ tham ô, lãng phí là trọng tội, là có lỗi với nhân dân, với Nhà nước. Quan liêu là nguồn gốc sinh ra tham nhũng và lãng phí, cần phải được bài trừ. Cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu phải huy động sự tham gia của đông đảo quần chúng nhân dân được tổ chức tốt, dưới sự chỉ đạo của các cơ quan. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”. Ngoài ra phải tuyên truyền giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ trong việc quản lý kinh tế, tài chính; chấn chỉnh công tác tổ chức - cán bộ trong các cơ quan Đảng, Nhà nước. Có chính sách đúng đắn, lựa chọn cán bộ tốt, với tổ chức, quản lý tốt là những giải pháp hiệu quả trong việc chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu. Thiết nghĩ trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, nếu Chính phủ quyết tâm và thực hiện như lời dạy của Bác Hồ thì hiệu quả của nó ngày càng cao hơn.

  1. Ngày 18/3: “Cần phải làm thế nào để cho công nhân da đen và da vàng cũng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ nô lệ tinh vi hơn, nặng nề hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ trước đây. Và chỉ với sự giúp đỡ của những người anh em bị áp bức của mình ở các nước Châu Âu, họ mới sẽ có thể tự giải phóng được mình” (8).

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có nhiều cống hiến cả trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Một trong những cống hiến lớn lao của Người là tạo dựng được tình đoàn kết giữa các dân tộc, các giai cấp bị áp bức trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Theo Người, muốn giải phóng dân tộc, giải phóng con người, thì giai cấp cần lao toàn thế giới phải đoàn kết đấu tranh, đánh đổ giai cấp bóc lột, thống trị.

Trong bài báo nói về cuộc bạo động của công nhân thành phố Porto - Nouvo ở Dahommey (thuộc địa của Pháp ở Tây Phi), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Cần phải làm thế nào để cho công nhân da đen và da vàng cũng hiểu rằng: Kẻ thù duy nhất của họ nằm ngay trong bản thân cái chế độ này, chế độ đang dẫn đến một chế độ nô lệ tinh vi hơn, nặng nề hơn, và vô nhân đạo hơn chế độ trước đây. Và chỉ với sự giúp đỡ của những người anh em bị áp bức của mình ở các nước Châu Âu, họ mới sẽ có thể tự giải phóng được mình”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cách mạng vô sản thế giới muốn thành công đòi hỏi giai cấp vô sản, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải đoàn kết thống nhất, phải gắn bó thân thiết như anh em một nhà. Với Người, đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, đoàn kết gắn bó trong các nước xã hội chủ nghĩa anh em là cơ sở nền tảng, là nhân tố quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chủ nghĩa xã hội trên phạm vi thế giới. Và để xây dựng, củng cố sự nghiệp đoàn kết cao cả ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, các đảng cộng sản và công nhân quốc tế phải tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kiên quyết đấu tranh chống những khuynh hướng tư tưởng sai lầm, lệch lạc như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại hiện đại…

Hiện nay, trước hoàn cảnh lịch sử mới, mặc dù quan hệ giữa Việt Nam với các nước có nhiều phát triển, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế vẫn là cơ sở lý luận quan trọng để Đảng cộng sản Việt Nam xác định chủ trương: “Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân, đảng cánh tả, các phong trào độc lập dân tộc, cách mạng và tiến bộ trên thế giới”(9). Đồng thời, tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết khu vực, đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào - Campuchia cũng vẫn là cơ sở lý luận, phương pháp luận để Đảng xác định: “Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước Asean, các nước Châu Á - Thái Bình Dương… Củng cố và phát triển quan hệ hợp tác song phương tin cậy với các đối tác chiến lược”(10.

  1. Ngày 19/3:“Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt. Các chiến sỹ đặc công được tin tưởng đặc biệt... Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt... Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục cho kỳ được..”(11)..

Ngày 19/3/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đến thăm Trung đoàn 246 thuộc Lữ đoàn 305 tại Trường Cán bộ dân tộc Trung ương, nay thuộc phường Trung Văn, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội. Tại đây, sau khi tham dự buổi diễn tập kỹ - chiến thuật của cán bộ, chiến sỹ, Bác Hồ ân cần căn dặn: “Đặc công tức là công tác đặc biệt, là vinh dự đặc biệt, cần phải có cố gắng đặc biệt. Các chiến sĩ đặc công được tin tưởng đặc biệt... Bất kỳ nhiệm vụ gì, bất kỳ nhiệm vụ đặc biệt nào cũng phải hoàn thành và hoàn thành cho tốt... Bất kỳ khó khăn đặc biệt nào cũng phải vượt qua, cũng phải khắc phục cho kỳ được...”.

Lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành phương châm, tư tưởng chỉ đạo hành động của Binh chủng Đặc công trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành. Bằng trí thông minh, lòng dũng cảm, không ngại hy sinh, gian khổ, sự đoàn kết, nỗ lực phấn đấu liên tục của các thế hệ cán bộ, chiến sỹ, Binh chủng Đặc công đã không ngừng lớn mạnh. Từ 9 tiểu đoàn lúc mới thành lập, đến nay, Đặc công Việt Nam phát triển vượt bậc, bao gồm 3 thành phần là đặc công bộ, đặc công nước và đặc công biệt động. Với cách đánh “công đồn đặc biệt”, bộ đội Đặc công đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ghi nhận những chiến công và thành tích đặc biệt xuất sắc đạt đ­ược trong xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Binh chủng Đặc công đã được Đảng, Nhà nước, Quân đội tặng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó hai lần được phong tặng danh hiệu “Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”. Đặc biệt, Binh chủng Đặc công được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng 16 chữ vàng: “Đặc biệt tinh nhuệ - Anh dũng tuyệt vời - M­­ưu trí táo bạo - Đánh hiểm thắng lớn”.

Trong giai đoạn cách mạng mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã và đang tạo những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động của cán bộ, chiến sỹ trong thực hiện nhiệm vụ; phòng, tránh và khắc phục những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa… góp phần vào sự nghiệp xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.

  1. Ngày 20/3: “Khi thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu tự đại”(12).

Ngày 20 tháng 3 năm 1958, tại Hội nghị cao cấp toàn quân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu hai nhiệm vụ trước mắt của quân đội trong tình hình mới. Thứ nhất, xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến đấu. Thứ hai, tích cực tham gia sản xuất để góp phần xây dựng kinh tế, xây dựng và củng cố địa phương. Để chỉ rõ những biện pháp thực hiện hai nhiệm vụ trên, Người đặc biệt yêu cầu các cán bộ quân đội phải nêu cao tinh thần trách nhiệm, gương mẫu trong mọi việc, tăng cường đoàn kết trong cán bộ, giữa cán bộ với chiến sỹ, giữa cán bộ với bộ đội Bắc - Nam, giữa bộ đội chiến đấu và bộ đội sản xuất, giữa quân và dân. Đồng thời, Bác Hồ cũng nhắc nhở quân đội ta “khi thành công càng phải khiêm tốn, chớ có tự kiêu tự đại”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, “tự kiêu là mù quáng, chỉ trông thấy những việc mình tưởng mình làm được, những điều mình tưởng mình biết hết; mà không trông thấy những điều mình không biết, những việc mình chưa làm được. Tự kiêu, tự đại là thoái bộ. Vì tự mãn tự túc, không cố gắng học hỏi thêm. Không theo kịp sự tiến bộ của thời đại. Tự mình ngăn trở sự tiến bộ của mình”(13). Từ những hệ quả, di hại của căn bệnh nêu trên, Người đặc biệt đề cao các biện pháp để khắc phục, phòng tránh. Bác Hồ yêu cầu: “Mỗi một đồng chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn, phải có lòng cầu tiến bộ”(14). Theo quan điểm của Người, khiêm tốn sẽ có sự tỉnh táo, để nhận thức được chân lý một cách đúng đắn, khách quan; đồng thời có được sự ủng hộ, tin tưởng, giúp đỡ chân thành của mọi người, cũng như đem lại cho ta nhiều khả năng cả về trí lực và vật lực để đạt đến sự thành công. Để có được đức tính khiêm tốn, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sỹ phải luôn luôn học hỏi, không ngừng phấn đấu vươn lên, không ngừng hoàn thiện nhân cách. Đó cũng là cơ sở để đoàn kết, xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với quần chúng nhân dân. Khiêm tốn là biểu hiện của việc tôn trọng con người, tôn trọng quần chúng. 

Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sỹ phải thực sự khiêm tốn, cầu thị và tôn trọng mọi người. Bác Hồ cũng chỉ rõ nếu làm ngược lại sẽ dẫn đến sự tự cao tự đại, khoe khoang, tự coi mình là “trung tâm của vũ trụ”, mà hậu quả có thể dẫn đến kiêu ngạo, tự phụ, hách dịch, xem thường người khác… Đó cũng là những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng đạo đức, đạo đức, lối sống, tự diễn biến, tự chuyển hóa được chỉ rõ trong Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 4 Khóa XI. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên, chiến sỹ cần tìm hiểu, nghiên cứu nhiều hơn nữa về sự khiêm tốn và tự suy ngẫm rút ra cho mình các bài học từ những lời dạy quý báu cũng như tấm gương đạo đức và nhân cách Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó, mỗi người không ngừng tự hoàn thiện bản thân, xứng đáng với vai trò và tư cách của người cán bộ, đảng viên, chiến sỹ trong Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng./.

(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 12 (1959-1960) , Xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 519.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 9 (1954- 1955), Xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 368.

(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 12 (1959-1960), Xuất bản lần thứ 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.521-526.

(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 8 (1953-1954), Xuất bản lần thứ 3, Nxb CTQG-ST, Hà Nội, 2011, tr.433

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 15 (1968-1969), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tr. 439.

(6) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập IV, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.236.

(7) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập VII, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.345-346.

(8) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.188.

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.113.

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, Sđd, tr.114.

(11) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập XV, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.319-320.

(12) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.367.

(13) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập V, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, Tr.631-632.

(14) Hồ Chí Minh toàn tập, Tập V, Sđd, Tr.90.

Còn nữa

Thanh Huống (st)

Bài viết khác: