1. Bối cảnh trên thế giới và trong nước
Đại hội XIII của Đảng đánh giá và dự báo tình hình thế giới theo hướng phức tạp và nhiều thách thức hơn: "Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đang đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, xung đột cục bộ tiếp tục diễn ra dưới nhiều hình thức, phức tạp và quyết liệt hơn, làm gia tăng rủi ro đối với môi trường kinh tế, chính trị, an ninh quốc tế. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng đang bị thách thức bởi sự cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan”1. Nhìn chung, mặc dù cục diện thế giới tiếp tục biến đổi theo xu hướng đa cực, đa trung tâm, về cơ bản các nước lớn vẫn vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, song khía cạnh đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau gay gắt hơn. Chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn, chủ nghĩa thực dụng trong quan hệ quốc tế gia tăng. Các nước đang phát triển, nhất là các nước nhỏ đứng trước nhiều khó khăn, thách thức mới.
Đối với Châu Á - Thái Bình Dương, khu vực có tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh và phát triển, là môi trường đối ngoại trực tiếp của đất nước ta, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh đến cạnh tranh ảnh hưởng nước lớn, tình hình Biển Đông và nhận định về Hiệp hội Các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, trong đó Đông Nam Á có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng, là khu vực cạnh tranh gay gắt giữa các cường quốc, tiềm ẩn nhiều bất ổn. Tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, phức tạp, quyết liệt hơn. Hòa bình, ổn định, tự do, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên Biển Đông đứng trước thách thức lớn, tiềm ẩn nguy cơ xung đột. ASEAN có vai trò quan trọng trong duy trì hoà bình, ổn định, thúc đẩy hợp tác khu vực nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn.
Ở Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền XHCN, xu hướng dân chủ hóa, trình độ dân trí không ngừng được nâng cao và cách mạng công nghiệp 4.0 đều tác động đến tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam. Kinh tế hội nhập ngày càng sâu rộng, một số Hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới quan trọng như Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA)... đòi hỏi phải cải cách thể chế kinh tế mạnh mẽ hơn nữa, tạo cơ hội mở rộng thị trường, đầu tư cho phát triển công nghiệp và thực hiện công nghiệp hoá. Khu vực tư nhân đóng góp ngày càng lớn vào phát triển kinh tế đất nước. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại được quan tâm và có sự chuyển biến tích cực; tầng lớp trung lưu gia tăng nhanh; vẫn còn cơ hội dân số vàng; thành quả xây dựng nông thôn mới được củng cố, đời sống mọi mặt của người dân không ngừng được cải thiện. Tuy nhiên, trong giai đoạn tới nền kinh tế phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, tiềm ẩn nhiều rủi ro. Nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khả năng tụt hậu xa hơn về kinh tế vẫn là thách thức lớn; độ mở của nền kinh tế lớn làm các tác động tiêu cực của kinh tế thế giới đến kinh tế trong nước nhanh và mạnh hơn. Khó khăn, yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục; năng lực tiếp cận kinh tế số còn hạn chế; các yếu tố nền tảng như thể chế, hạ tầng, nguồn nhân lực chất lượng cao, công nghệ... còn thấp so với yêu cầu để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mức độ tham gia của Việt Nam vào các chuỗi cung ứng toàn cầu và khu vực vẫn còn hạn chế và tham gia ở các công đoạn giản đơn. Nhu cầu vốn đầu tư phát triển kinh tế - xã hội rất lớn trong khi đó nguồn vốn nhà nước, vốn ưu đãi và viện trợ đều có xu hướng giảm.
Các vấn đề xã hội gây áp lực lớn đến phát triển kinh tế - xã hội, như già hoá dân số, chênh lệch giàu - nghèo và trình độ phát triển. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, xâm nhập mặn ngày càng nhanh với cường độ mạnh, khó lường, đặc biệt là ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19 có thể kéo dài đến những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2021-2025. Những thách thức về khai thác, sử dụng hiệu quả, bền vững nguồn nước, tài nguyên, đất đai và xử lý ô nhiễm môi trường sẽ tác động nặng nề đến phát triển kinh tế, xã hội…
Những biến động quốc tế, khu vực và trong nước sẽ có những tác động đến tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta.
2. Quan điểm, mục tiêu hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
Bảo đảm nguyên tắc Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ; nhân dân là chủ thể, là trung tâm để thiết kế mô hình tổ chức, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội; bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tiếp tục mô hình Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, cầm quyền ở Việt Nam; thể chế Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; đề cao kỷ luật, kỷ cương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; bảo đảm tính tổng thể, đồng bộ; đám ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài. Không nhất thiết tất cả các khối, địa phương, cơ quan, đơn vị phải có mô hình tổ chức bộ máy giống nhau. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị. Sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị gắn với tinh giản biên chế và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Mục tiêu là: Hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể của hệ thống chính trị; xác định rõ hơn chức năng, nhiệm vụ và cơ chế hoạt động của các tổ chức trong hệ thống chính trị, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ phát triển mới. Tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.
Một số giải pháp
1. Nhận thức: Thống nhất nhận thức về sự cần thiết phải xây dựng, hoàn thiện mô hình tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị nước ta đáp ứng yêu cầu cách mạng trong tình hình mới, để trên cơ sở đó tổ chức triển khai một cách đồng bộ, quyết liệt và hiệu quả. Đây là yêu cầu tất yếu nhằm tiếp tục đưa đất nước lên một tầm cao mới. Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, ở từng giai đoạn lịch sử, mô hình tổng thể của hệ thống chính trị thường xuyên được hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu phát triển..
2. Hoàn thiện tổ chức bộ máy của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Bảo đảm sự đồng bộ giữa các thành viên và trong cả hệ thống chính tri; tăng cường phân cấp, phân quyền đi đôi với xác định rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu; tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế, giảm khâu trung gian; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động.
Trong thời điểm hiện nay, mô hình tổng thể hệ thống chính trị của nước ta về cơ bản là phù hợp, cần tập trung sắp xếp, hoàn thiện các khối và các cơ quan, tổ chức trong từng khối nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước; phát huy vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và chức năng giám sát, phản biện xã hội của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội
Việc sắp xếp, hoàn thiện theo hướng: 1) Bảo đảm sự đồng bộ giữa các khối và giữa các cơ quan, tổ chức trong khối. 2) Phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN. 3) Tiếp tục tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế, giảm khâu trung gian. 4) Tăng cường hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. 5) Tiếp tục phân cấp, phân quyền đi đôi với xác định rõ trách nhiệm của tổ chức và cá nhân, nhất là người đứng đầu trong bộ máy Nhà nước.
Trước mắt, tập trung đổi mới, hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; nghiên cứu giải quyết những bất cập của mô hình tổ chức đảng được lập ở những nơi có đặc điểm riêng và mô hình 2 tổ chức đảng trong một tổ chức.
Hoàn thiện mô hình tổ chức chính quyền địa phương theo hướng sắp xếp lại các đơn vị hành chính cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã theo lộ trình; xác định rõ, cụ thể hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp chính quyền địa phương để thực hiện phân cấp, phân quyền hợp lý; triển khai thí điểm một số mô hình mới; đẩy mạnh xây dựng chính quyền điện tử, thành phố thông minh.
Tiếp tục thực hiện sắp xếp, giảm số lượng đơn vị hành chính các cấp theo lộ trình phù hợp với sự phát triển của hạ tầng giao thông, công nghệ thông tin, trình độ quản lý, yêu cầu phát triển của từng khu vực v.v.. Nghiên cứu, đề xuất, triển khai thí điểm các mô hình chính quyền đô thị, nông thôn, hải đảo, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (nghiên cứu chuyển một số chức năng, nhiệm vụ của chính quyền cấp huyện cho cấp tỉnh và cấp xã phù hợp với tình hình tại mỗi địa phương; thí điểm mô hình chính quyền 2 cấp, không tổ chức chính quyền cấp huyện ở những nơi có điều kiện). Đẩy mạnh triển khai thí điểm mô hình chính quyền đô thị ở một số thành phố và tổng kết mô hình chính quyền không hoàn chỉnh. Thực hiện đầy đủ, hiệu quả các nhiệm vụ, quyền hạn của HĐND được luật pháp quy định, tăng số lượng đại biểu chuyên trách, giảm số đại biểu kiêm nhiệm, nâng cao chất lượng đại biểu HĐND. Làm rõ và thực hiện nghiêm cơ chế tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tăng thẩm quyền cho người đứng đầu cơ quan hành chính các cấp đi đối với tăng cường trách nhiệm cá nhân. Đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, các nền tảng dùng chung, cơ sở dữ liệu; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước.
Hoàn thiện mô hình MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng thí điểm việc chuyển một số chức năng, nhiệm vụ của ban dân vận ở cấp tỉnh, cấp huyện sang MTTQ Việt Nam cùng cấp, thí điểm thực hiện mô hình MTTQ Việt Nam không đủ 4 cấp (cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã và thôn, tổ dân phố) ở những nơi có điều kiện và không tổ chức cấp huyện đối với các tổ chức chính trị - xã hội. Nghiên cứu hợp lý hóa số tổ chức đại diện là thành viên của MTTQ Việt Nam và các thành phần trong từng tổ chức cho phù hợp với tình hình thực tế, tránh hình thức, nâng cao hiệu quả hoạt động.
Giữ nguyên mô hình MTTQ Việt Nam ở Trung ương, cấp xã và ban công tác mặt trận ở khu dân cư. Nghiên cứu, thí điểm áp dụng mô hình MTTQ Việt Nam 4 cấp hoặc 3 cấp tùy thuộc địa bàn nông thôn hay thành phố, bỏ cấp trung gian ở những nơi có điều kiện theo hướng chuyển một số chức năng, nhiệm vụ của cấp trung gian cho cấp trên hoặc cấp dưới. Cũng tương tự như vây, thí điểm bỏ cấp trung gian đối với các tổ chức chính trị - xã hội ở những nơi có điều kiện. Xem xét điều chỉnh diện đối tượng là cán bộ, công chức tham gia tổ chức công đoàn.
3. Hoàn thiện thể chế, cơ chế, quy định về mối quan hệ giữa các khối và giữa các cơ quan, tổ chức trong khối. Làm rõ vị trí, vai trò, quyền hạn, trách nhiệm của mỗi tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương để vừa có sự tách bạch rõ ràng nhưng vẫn bảo đảm sự tổng thể, thống nhất, đồng bộ trong cả hệ thống chính trị.
Hoàn thiện cơ chế, quy chế, quy định về mối quan hệ giữa các khối, giữa các cơ quan, tổ chức trong khối như Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam và Điều lệ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, hệ thống các quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước để các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị phát huy đầy đủ quyền và trách nhiệm của từng cơ quan, tăng cường hiệu lực, hiệu quả hoạt động. Việc hoàn thiện theo hướng làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và chính quyền địa phương cũng như mối quan hệ giữa các thành tố này với nhau. Xác định Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền duy nhất, đại diện cho giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam. Quốc hội phải thực sự là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Chính phủ phải thực sự là cơ quan hành chính cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội.
4. Đổi mới mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị
Thứ nhất, cần nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm của Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị gắn với đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, tăng cường năng lực cầm quyền, không buông lỏng lãnh đạo, không bao biện, làm thay, tôn trọng vai trò chủ động của Nhà nước trong quản lý, điều hành, tuân theo pháp luật. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ trong tổ chức và hoạt động của MTTQ Việt Nam gắn với tinh gọn bộ máy, nâng cao hiệu quả; tập hợp, vận động đoàn kết nhân dân, thực hiện giám sát và phản biện xã hội.
Tư duy lại vai trò của Nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Nhà nước Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tăng cường sức mạnh của Nhà nước thông qua các biện pháp cải tổ mạnh mẽ bộ máy Nhà nước từ việc quan niệm lại kết cấu và tổ chức quyền lực, thực hiện công quyền của các nhánh quyền lực đến việc cải cách nền hành chính quốc gia, cải cách tư pháp… làm cho Nhà nước thực sự thích ứng với cơ chế kinh tế - xã hội mới là để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ đặt ra của thời kỳ quá độ. Từng bước loại bỏ dần sự can thiệp của Nhà nước vào những lĩnh vực quan hệ xã hội mà tính chất của chúng không đòi hỏi sự can thiệp ấy, tăng cường các khả năng độc lập của các thiết chế chính trị - xã hội khác theo hướng giải phóng họ khỏi sự phụ thuộc (bảo trợ) của Nhà nước từ tài chính đến tổ chức.
Xây dựng cơ chế, quy chế phối hợp trên cơ sở làm rành mạch chức năng giữa Đảng, Nhà nước, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội; đảm bảo tính độc lập tương đối về tổ chức và kinh phí hoạt động của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội. Trên cơ sở đó có sự phân công, ràng buộc trách nhiệm cụ thể, giám sát lẫn nhau giữa cấp ủy đảng, chính quyền, MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội, tạo sự vận hành đồng bộ, thông suốt của hệ thống chính trị, mở rộng và phát huy dân chủ trong xã hội, nâng cao chất lượng của cả hệ thống chính trị.
Phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng và Nhà nước với Nhân dân. Đổi mới nội dung, phương thức tuyên truyền, vận động nhân dân theo hướng thiết thực, lấy nhu cầu, lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân làm động lực quan trọng cho công tác vận động, tập hợp nhân dân; hướng về cơ sở, chú ý những nhân tố mới, những cách làm sáng tạo, có ảnh hưởng lan tỏa sâu rộng. Nâng cao hiệu quả công tác tiếp xúc cử tri, giám sát, tiếp dân, đối thoại, giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của nhân dân. Tích cực đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm có trọng tâm, trọng điểm, thực chất, hiệu quả nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp pháp của nhân dân.
3. Lộ trình thực hiện việc hoàn thiện mô hình tổ chức tổng thể tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị Việt Nam từ năm 2021 đến năm 2030
Giai đoạn năm 2021 đến năm 2025
Tiếp tục thực hiện sắp xếp, tinh gọn đầu mối, tinh giản biên chế, giảm khâu trung gian ở cả 3 khối; hoàn thiện hệ thống các quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước; Luật, Điều lệ của MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội để đẩy mạnh hơn nữa việc phân cấp, phân quyền, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ giữa các khối và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân, nhất là người đứng đầu. Tiếp tục thực hiện sắp xếp, sáp nhập, giảm số lượng đơn vị hành chính các cấp đối với những nơi không đủ hai tiêu chí hoặc những nơi cần dư địa phát triển (thành phố Đà Nẵng, tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hà Nam, tỉnh Hưng Yên).
Nghiên cứu, thí điểm mô hình chính quyền 2 cấp, không tổ chức chính quyền trung gian cấp huyện ở những nơi có điều kiện phù hợp (diện tích nhỏ, hạ tầng đồng bộ, dân số ít như tỉnh Bắc Ninh, tỉnh Hà Nam, tỉnh Hưng Yên). Đẩy mạnh triển khai thí điểm mô hình chính quyền đô thị ở một số thành phố và tổng kết mô hình chính quyền không hoàn chỉnh. Thí điểm việc chuyển một số chức năng, nhiệm vụ của ban dân vận ở cấp tỉnh, cấp huyện sang MTTQ Việt Nam cùng cấp. Thí điểm áp dụng mô hình MTTQ 4 cấp hoặc 3 cấp ở địa bàn nông thôn hoặc thành phố. Thí điểm bỏ cấp trung gian đối với các tổ chức chính trị - xã hội ở những nơi có điều kiện. Nghiên cứu, đề xuất cách giải quyết những bất cập của mô hình tổ chức đảng được lập ở những nơi có đặc điểm riêng và mô hình 2 tổ chức đảng trong một tổ chức.
Đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, các nền tảng dùng chung, cơ sở dữ liệu; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo vào công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của các cơ quan nhà nước.
Giai đoạn 2025 đến 2030
Tổng kết việc triển khai thí điểm mô hình chính quyền 2 cấp, không tổ chức chính quyền trung gian cấp huyện, mô hình chính quyền không hoàn chỉnh để tham mưu, đề xuất với BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
Tổng kết thực hiện các mô hình thí điểm: Việc chuyển một số chức năng, nhiệm vụ của ban dân vận ở cấp tỉnh, cấp huyện sang MTTQ Việt Nam cùng cấp; thí điểm áp dụng mô hình MTTQ Việt Nam 4 cấp hoặc 3 cấp; thí điểm bỏ cấp trung gian đối với các tổ chức chính trị - xã hội.
Sắp xếp các bộ, ngành có chức năng, nhiệm vụ tương đồng. Khắc phục sự song trùng các tổ chức đảng trong một tổ chức và vấn đề các tổ chức đảng được lập ở những nơi có đặc điểm riêng.
PGS, TS. Dương Mộng Huyền
Trợ lý Thủ tướng Chính phủ
Theo Tạp chí Xây dựng Đảng
Tâm Trang (st)
--------------------------
- Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia sự thật, t.1, tr.105, 106.