Chính sách Bảo hiểm xã hội (BHXH) hoạt động dựa trên nguyên tắc cơ bản “đóng - hưởng” đã tạo ra bước đột phá quan trọng về sự bình đẳng của người lao động về chính sách BHXH. Khi đó, người lao động làm việc ở các thành phần kinh tế, các ngành nghề, địa bàn khác nhau, theo các hình thức khác nhau đều được tham gia BHXH. Phạm vi, đối tượng tham gia BHXH không ngừng được mở rộng; hệ thống quy định về chính sách BHXH ngày càng hoàn thiện, đã thu hút hàng triệu người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau, khuyến khích họ tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo sự an tâm, tin tưởng và yên tâm lao động, sản xuất, kinh doanh. Bảo hiểm xã hội đã trở thành một phần quan trọng trong cuộc sống của nhiều công dân.

Để phù hợp với sự phát triển của đất nước thì chính sách bảo hiểm xã hội đã có những thay đổi về các khoản trợ cấp, về chế độ hưu trí và một số chế độ khác. Năm 2021, đánh dấu bước chuyển biến quan trọng khi nhiều nội dung quan trọng về chính sách BHXH sẽ chính thức có hiệu lực. Mới đây, Bộ Lao đông, Thương binh và Xã hội đã ban hành Thông tư số 06/2021/TT-BLĐTBXH ngày 07/07/2021 để sửa đổi một số quy định của Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn Luật BHXH. Theo đó, từ ngày 01/9/2021, sẽ có nhiều thay đổi lớn ảnh hưởng đến người tham gia BHXH bắt buộc. Cụ thể như sau:

1. Về đối tượng tham gia BHXH bắt buộc

Bổ sung quy định Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn đồng thời là người giao kết hợp đồng lao động quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 2 Luật BHXH thì tham gia BHXH bắt buộc theo đối tượng quy định tại điểm a và điểm b khoản 1 Điều 2 Luật BHXH.

Điều này có nghĩa, những Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn đồng thời là người giao kết hợp đồng lao động sẽ đóng BHXH bắt buộc theo mức 8% mức tiền lương tháng vào quỹ hưu trí và tử tuất. Mức tiền lương hàng tháng làm căn cứ đóng BHXH này sẽ dựa theo hợp đồng lao động đã ký nhưng tuân theo nguyên tắc không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng đối với NLĐ làm công việc giản đơn nhất. Trong khi đó, nếu chỉ là Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn thì hàng tháng đóng 8% mức lương cơ sở vào quỹ hưu trí và tử tuất.

2. Sửa đổi liên quan đến mức hưởng chế độ ốm đau 

- Thay đổi mức hưởng chế độ ốm đau không trọn tháng và giới hạn mức hưởng.

Văn bản hiện hành quy định: Tháng nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau được tính từ ngày bắt đầu nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau của tháng đó đến ngày trước liền kề của tháng sau liền kề. Trường hợp có ngày lẻ không trọn tháng thì mức hưởng chế độ ốm đau của những ngày lẻ không trọn tháng được tính theo công thức dưới đây nhưng tối đa bằng mức trợ cấp ốm đau một tháng:

Trong đó:

+ Tỷ lệ hưởng chế độ ốm đau theo quy định tại điểm a khoản này.

+ Số ngày nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần.

So với trước đây, Thông tư 06/2021 bổ sung quy định mức hưởng chế độ ốm đau của những ngày lẻ không trọn tháng tối đa bằng mức trợ cấp ốm đau một tháng.

- Thay đổi căn cứ tháng tiền lương tính hưởng mức hưởng chế độ ốm đau

Người lao động thuộc đối tượng đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản bị ốm đau, tai nạn mà không phải tai nạn lao động hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau mà thời gian nghỉ việc từ 14 ngày làm việc trở lên trong tháng (bao gồm cả trường hợp nghỉ việc không hưởng tiền lương) thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên mức tiền lương đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

Đặc biệt, bổ sung nội dung mới: Trường hợp các tháng liền kề tiếp theo người lao động vẫn tiếp tục bị ốm và phải nghỉ việc thì mức hưởng chế độ ốm đau được tính trên tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội của tháng liền kề trước khi nghỉ việc.

3. Làm rõ trường hợp hưởng trợ cấp một lần khi sinh con với lao động nam

Khoản 5, Điều 1, Thông tư số 06/2021/TT-BLĐTBXH  bổ sung điểm c Khoản 2, Điều 9, Thông tư số 59/2015/TT-BLĐTBXH như sau: Trường hợp người mẹ tham gia BHXH nhưng không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản khi sinh con mà người cha đủ điều kiện quy định tại điểm a khoản 2 Điều 9 Thông tư 59/2015 thì người cha được hưởng trợ cấp một lần khi sinh con theo Điều 38 Luật BHXH. Việc bổ sung quy định này nhằm làm rõ quy định về trợ cấp một lần khi sinh con tại Điều 38 Luật BHXH.

Như vậy, trường hợp cả hai vợ chồng cùng tham gia BHXH mà người vợ không đủ điều kiện hưởng chế độ thai sản thì người chồng đóng BHXH đủ 06 tháng trong 12 tháng trước khi sinh con sẽ được hưởng trợ cấp một lần khi sinh con bằng 02 tháng lương cơ sở tại tháng sinh con cho mỗi con.

4. Về thời gian hưởng chế độ thai sản

- Trường hợp lao động nữ mang thai đôi trở lên mà khi sinh nếu có con bị chết hoặc chết lưu thì thời gian hưởng, trợ cấp thai sản khi sinh con và trợ cấp một lần khi sinh con được tính theo số con được sinh ra, bao gồm cả con bị chết hoặc chết lưu.

So với quy định trước, chế độ thai sản chế độ thai sản chỉ được giải quyết đối với con còn sống (Khoản 3 Điều 10 Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH)

- Lao động nam đang đóng BHXH bắt buộc vào quỹ ốm đau và thai sản khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo quy định tại khoản 2 Điều 34 của Luật BHXH, trường hợp nghỉ nhiều lần thì thời gian bắt đầu nghỉ việc của lần cuối cùng vẫn phải trong khoảng thời gian 30 ngày đầu kể từ ngày vợ sinh con và tổng thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản không quá thời gian quy định. (Quy định mới bổ sung)

- Bổ sung quy định: Trường hợp thời gian hưởng chế độ thai sản trùng với thời gian nghỉ phép hằng năm, nghỉ việc riêng, nghỉ không hưởng lương không được tính hưởng chế độ đối với các trường hợp:

+ Nghỉ chế độ đi khám thai

+ Nghỉ chế độ khi sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý

+ Nghỉ chế độ khi thực hiện các biện pháp tránh thai

+ Nghỉ chế độ của lao động nam có vợ sinh con.

5. Bổ sung quy định về thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản

Theo Khoản 8, Điều 1, Thông tư 06/2021/TT-BLĐTBXH bổ sung Khoản 1, Điều 13, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH về lao động nữ nghỉ việc hưởng chế độ dưỡng sức phục hồi sức khỏe.

“Khoảng thời gian 30 ngày đầu làm việc theo quy định tại Khoản 1, Điều 41, của Luật Bảo hiểm xã hội là khoảng thời gian 30 ngày làm việc kể từ ngày hết thời hạn được hưởng chế độ thai sản mà sức khỏe của người lao động chưa phục hồi.

Lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con theo quy định tại Điều 40 của Luật Bảo hiểm xã hội thì không giải quyết chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thời gian hưởng chế độ khi sinh con.”

Như vậy, đã bổ sung mốc tính 30 ngày đầu làm việc tính từ ngày hết thời hạn hưởng chế độ thai sản. Trong khoảng thời gian này mà sức khỏe chưa phục hồi thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ từ 05 ngày đến 10 ngày. Bên cạnh theo luật mới quy định trường hợp lao động nữ đi làm trước khi hết thời hạn nghỉ sinh con thì không giải quyết chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thời gian hưởng chế độ khi sinh con.

6. Về điều kiện hưởng lương hưu

*Do điều kiện hưởng lương hưu từ ngày 01/01/2021 đã thay đổi nên một số nội dung hướng dẫn tại Điều 15 Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH không còn phù hợp.

Quy định hiện hành về xác định thời gian người lao động (NLĐ) làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm và làm việc ở vùng có điều kiện đặc biệt khó khăn (ĐBKK) bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước 01/01/2021 để làm căn cứ xét điều kiện giải quyết chế độ hưu trí quy định tại Điểm b khoản 1 Điều 54 Luật BHXH 2014 (đã được sửa đổi, bổ sung) như sau:

- Đối với NLĐ đang làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ LĐ-TB&XH ban hành hoặc đang làm việc ở vùng có điều kiện ĐBKK bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước ngày 01/01/2021:

+ Thời gian NLĐ phải nghỉ việc để điều trị, phục hồi chức năng lao động do bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp (được người sử dụng lao động nơi NLĐ bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp trả đủ tiền lương và đóng đầy đủ BHXH) thì được tính.

+ Thời gian NLĐ được cử làm việc, đi học, hợp tác lao động mà không làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm hoặc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do Bộ LĐ-TB&XH ban hành hoặc làm việc ở vùng có điều kiện ĐBKK  bao gồm cả thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên trước 01/01/2021 thì không được tính.

+ Thời gian NLĐ đóng một lần cho thời gian còn thiếu vào quỹ hưu trí và tử tuất để hưởng lương hưu thì không được tính.

- Khi xác định thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên đối với giai đoạn trước 01/01/1995 để làm căn cứ xét điều kiện giải quyết chế độ hưu trí thì căn cứ theo quy định tại Thông tư liên tịch 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT. Đối với địa bàn mà Thông tư liên tịch số 11/2005/TTLT-BNV-BLĐTBXH-BTC-UBDT không quy định hoặc quy định hệ số phụ cấp khu vực thấp hơn 0,7 nhưng thực tế NLĐ đã có thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên theo quy định tại các văn bản quy định về phụ cấp khu vực trước đây thì căn cứ quy định tại các văn bản đó để xác định thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên làm căn cứ xét điều kiện giải quyết chế độ hưu trí.

Đối với NLĐ có thời gian công tác tại các chiến trường B, C trước ngày 30 tháng 4 năm 1975 và chiến trường K trước ngày 31 tháng 8 năm 1989 thì thời gian này được tính là thời gian làm việc ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 để làm căn cứ xét điều kiện giải quyết chế độ hưu trí.

*Điều kiện hưởng lương hưu với người bị tước quân tịch hoặc danh hiệu CAND

Các đối tượng dưới đây bị tước quân tịch hoặc tước danh hiệu công an nhân dân thì nếu đủ điều kiện đáp ứng đủ các điều kiện như với NLĐ bình thường thì được hưởng lương hưu:

+ Sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác cơ yếu hưởng lương như đối với quân nhân;

+ Hạ sĩ quan, chiến sĩ quân đội nhân dân; hạ sĩ quan, chiến sĩ công an nhân dân phục vụ có thời hạn; học viên quân đội, công an, cơ yếu đang theo học được hưởng sinh hoạt phí;

(Trong khi đó, nếu không bị tước quân tịch, danh hiệu công an nhân dân thì những người này có thể về hưu trước tới 5 năm so với NLĐ bình thường theo khoản 2 Điều 54 Luật BHXH).

*Bổ sung quy định đối với người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn

Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn mà có từ đủ 20 năm trở lên đóng BHXH bắt buộc không theo đối tượng người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn khi nghỉ hưu có mức lương hưu thấp hơn mức lương cơ sở tại thời điểm hưởng lương hưu thì được áp dụng quy định mức lương hưu hằng tháng thấp nhất bằng mức lương cơ sở.

7. Tiền lương tháng đóng BHXH để tính hưởng lương hưu đối với đối tượng có thời gian đóng BHXH thuộc nhiều chế độ 

- Bổ sung quy định về tiền lương đóng BHXH để tính hưởng lương hưu tại Khoản 3, Điều 20, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH. Cụ thể, bổ sung Khoản 3a theo quy định tại Khoản 19, Điều 1, Thông tư 06/2021/TT-BLĐTBXH như sau:

- Bổ sung quy định về tiền lương đóng BHXH để hưởng lương hưu của người lao động:

+ Khi tính mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH để tính lương hưu, trợ cấp một lần mà có thời gian đóng BHXH trước ngày 01/10/2004 theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định thì tiền lương tháng đóng BHXH của thời gian này được chuyển đổi theo chế độ tiền lương tại thời điểm hưởng chế độ hưu trí, tử tuất.

+ Trường hợp NLĐ có thời gian làm việc trong các doanh nghiệp đóng BHXH theo chế độ tiền lương do Nhà nước quy định mà hưởng BHXH từ ngày 01/01/2016 trở đi thì tiền lương tháng đóng BHXH trước ngày 01/10/2004 nêu trên được chuyển đổi theo tiền lương quy định tại Nghị định 205/2004/NĐ-CP .

8. Trường hợp hưởng trợ cấp tuất hàng tháng bổ sung quy định mới

Trợ cấp tuất hàng tháng các quy định sau:

- Thời điểm xem xét tuổi đối với thân nhân của NLĐ theo quy định tại Khoản 2, Điều 67, Luật Bảo hiểm xã hội là kết thúc ngày cuối cùng của tháng NLĐ chết.

- Trong trường hợp giải quyết chế độ tử tuất nếu hồ sơ của thân nhân NLĐ không xác định được ngày, tháng sinh thì lấy ngày 01/01 của năm sinh để tính tuổi làm cơ sở giải quyết chế độ tử tuất.

Khi xác định mức thu nhập của thân nhân NLĐ để làm căn cứ giải quyết trợ cấp tuất hàng tháng theo quy định tại Khoản 3, Điều 67, Luật Bảo hiểm xã hội thì xác định tại tháng NLĐ chết. Thân nhân đã được giải quyết hưởng trợ cấp tuất hàng tháng sau đó có thu nhập cao hơn mức lương cơ sở thì vẫn hưởng trợ cấp tuất hàng tháng.

9. Sửa đổi quy định về tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc

Theo quy định tại Khoản 26, Điều 1, Thông tư 06/2021/TT-BLĐTBXH sửa đổi Khoản 2 và Khoản 3, Điều 30, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH quy định về mức lương tháng đóng BHXH bắt buộc ứng với các mốc thời gian và thay đổi phù hợp với Bộ Luật lao động 2019. Cụ thể:

- Từ ngày 01/01/2018 đến ngày 31/12/2020, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương theo quy định tại Khoản 1, Điều 30, Thông tư 59/2015/TT-BLĐTBXH và các khoản bổ sung khác theo quy định tại Điểm a, Khoản 3, Điều 4, Thông tư số 47/2015/TT-BLĐTBXH.

- Từ ngày 01/01/2021 trở đi, tiền lương tháng đóng BHXH là mức lương, phụ cấp lương và các khoản bổ sung khác quy định tại Điểm a, Tiết b1 Điểm b và Tiết c1 Điểm c, Khoản 5, Điều 3, Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBXH ngày 12/11/2020. 

- Lưu ý tiền lương tháng đóng BHXH bắt buộc không bao gồm:

+ Các chế độ và phúc lợi khác như thưởng theo quy định tại Điều 104 của Bộ luật Lao động 2019.

+ Các khoản tiền thưởng sáng kiến; tiền ăn giữa ca; các khoản hỗ trợ xăng xe, điện thoại, đi lại, tiền nhà ở, tiền giữ trẻ, nuôi con nhỏ; hỗ trợ khi NLĐ có thân nhân bị chết/có người thân kết hôn, sinh nhật của NLĐ, trợ cấp cho NLĐ gặp hoàn cảnh khó khăn khi bị TNLĐ-BNN và các khoản hỗ trợ, trợ cấp khác ghi thành mục riêng trong hợp đồng lao động quy định tại Tiết c2, Điểm c, Khoản 5, Điều 3, Thông tư số 10/2020/TT-BLĐTBXH.

Như vậy, với những quy định cụ thể, chi tiết về BHXH, đặc biệt về quyền lợi của người lao động khi tham gia BHXH đã góp phần thu hút nguồn lao động vào nền sản xuất xã hội. Việc được tham gia BHXH khi đang làm việc và được hưởng lương hưu sau này đã tạo ra cho người lao động sự phấn khởi, tâm lý ổn định, yên tâm thực hiện công việc mà tổ chức giao cho họ. Có thể nói, chính sách BHXH được coi là điểm tựa cho tổ chức, người lao động, nhất là trong giai đoạn phải chống chọi với đại dịch COVID-19 ở nước ta hiện nay./.

Bùi Hảo (tổng hợp)
     

Bài viết khác: