Để Đảng ta xứng đáng là đội tiên phong, bộ tham mưu của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, thực hiện được sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với Tổ quốc, dân tộc, giai cấp công nhân, nhân dân lao động, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng và thường xuyên chăm lo đến xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về mọi mặt. Từ thực tiễn lịch sử lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, cho thấy thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là thắng lợi của công tác xây dựng Đảng. Trong mọi điều kiện hoàn cảnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn được Đảng ta quan tâm và được coi là nhiệm vụ “then chốt”có ý nghĩa sống còn, quan trọng hàng đầu về xây dựng Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng họp tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 5 đến ngày 10-9-1960. Ảnh tư liệu
Bài 1: Công tác xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, thường xuyên, liên tục
Thực hiện tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn luôn quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Việc đẩy mạnh công tác xây dựng Đảng đã được đặt ra trong nhiều nghị quyết của Đảng, từ Cương lĩnh đến văn kiện các đại hội Đảng toàn quốc, các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị.
Quán triệt quan điểm về xây dựng chỉnh đốn Đảng là “Nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách. Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam và những biểu hiện sai lầm, sự nguy hại dẫn đến nguy cơ đe dọa đến sự lãnh đạo của Đảng, mà Đảng ta đã tiến hành nhiều đợt chỉnh đốn và chỉnh huấn Đảng với những mục tiêu, nhiệm vụ, phương pháp thực hiện khác nhau.
Năm 1939, Đảng tiến hành sinh hoạt “tự phê bình” sâu rộng, khắc phục hạn chế, giải quyết vấn đề về tư tưởng và tổ chức của Đảng trong phong trào Mặt trận dân chủ. Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã viết tác phẩm Tự chỉ trích, xác định mục tiêu, phương châm: “Công khai, mạnh dạn, thành thực vạch ra lỗi lầm của mình và tìm phương pháp sửa chữa, chống những xu hướng hoạt đầu, thỏa hiệp, như thế không làm yếu Đảng và làm cho Đảng được thống nhất mạnh mẽ. Làm như thế không sợ địch nhân lợi dụng chửi rủa, vu cáo cho Đảng, không sợ “nối giáo cho giặc”. Trái lại nếu “đóng cửa bảo nhau”, giữ cái vỏ thống nhất mà bên trong là hổ lốn một cục, đầy rẫy bọn hoạt đầu, đấy mới chính là để kẻ thù chửi rủa, hơn nữa đó tỏ ra không phải là một Đảng tiên phong cách mạng mà là một Đảng hoạt đầu cải lương”1.
Sau Cách mạng Tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã kịp thời chấn chỉnh với những khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên vừa mới có chút chức quyền trong tay. Trong Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, ngày 17-10-1945, Người đã phê phán, ngăn đe, cảnh báo một số căn bệnh của một số đồng chí nắm chức vụ quyền hạn trong bộ máy chính quyền nhà nước như: Trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo…
Sau khi cả nước bước vào kháng chiến chống Pháp, tháng 10-1947, Hồ Chủ tịch viết tác phẩm Sửa đổi lối làm việc. Đây là tác phẩm rất quan trọng, có tính chất kinh điển về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Ở đó, lần đầu tiên Người dùng từ “chỉnh đốn Đảng”. Người vừa nêu lên những ưu điểm, vừa phê phán những sai lầm khuyết điểm của cán bộ, đảng viên; xác định 12 chuẩn mực về tư cách của Đảng chân chính cách mạng; đúc kết, nhắc nhớ: “Muốn cho Đảng được vững bền/ Mười hai điều ấy chớ quên điều nào”. Trong đó, chủ nghĩa cá nhân, được xác định “như một thứ vi trùng rất độc, do nó mà sinh ra các thứ bệnh rất nguy hiểm”. Riêng bệnh cá nhân, Người đã tập trung nhận diện, phân tích 10 biểu hiện chi tiết; rồi kết luận: “Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng. Từ đó, Người đòi hỏi trong chỉnh đốn Đảng phải “kiên quyết chống lại “bệnh cá nhân”2. Phận sự của người đảng viên và cán bộ là: “Trọng lợi ích của Đảng hơn hết. Ngoài lợi ích của dân tộc, của Tổ quốc, thì Đảng không có lợi ích gì khác”; phải rèn luyện đạo đức cách mạng - nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm.
Những năm cuối kháng chiến chống Pháp, Đảng ta lại mở cuộc chỉnh Đảng. Tháng 5-1952, tại Lớp chỉnh huấn đầu tiên của Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định: “Mục đích chỉnh Đảng là nâng cao tư tưởng và trình độ chính trị của đảng viên và cán bộ, làm cho đảng viên và cán bộ theo đúng quan điểm và lập trường vô sản”3.
Trong bài nói chuyện của Bác tại Hội nghị tổng kết cải cách ruộng đất đợt II của Đoàn “Thái Nguyên - Bắc Giang” ngày 8/2/1955, Hồ Chí Minh nêu rõ: “Một là phải thật thà, thành khẩn tự phê bình, xem lại mình có khuyết điểm gì, anh chị em mình có khuyết điểm gì. Có người sợ nói ra mất thể diện, thế là dại, cũng như người có bệnh mà giấu bệnh không nói rõ cho thầy thuốc biết. Giấu bệnh thì bệnh ngày càng nặng. Giấu khuyết điểm thì khuyết điểm ngày càng nhiều. Phải thật thà tự phê bình, hoan nghênh anh chị em phê bình. Phải thật thà tự phê bình chứ không phải là phê bình qua loa. Phải hoan nghênh đồng chí phê bình mình. Mình phải tự đấu tranh với mình”. Cán bộ phải nâng cao tinh thần kỷ luật, phải giữ đúng kỷ luật. Làm việc gì cũng phải có tổ chức. Lãnh đạo quan trọng nhất là lãnh đạo tư tưởng, phải hiểu tư tưởng của mỗi cán bộ để giúp đỡ thiết thực trong công tác; vì tư tưởng thông suốt thì làm tốt, tư tưởng nhùng nhằng thì không làm được việc. Phải kiểm tra công tác của cán bộ, nếu chỉ nghe báo cáo, có khi cán bộ báo cáo không đúng thì lãnh đạo sẽ sai lệch”.
Tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Nhìn lại cải cách ruộng đất (thời kỳ 1954 -1957) các nhà khoa học lịch sử, các chuyên gia xây dựng Đảng cho rằng, chủ trương cải cách ruộng đất là đúng với tình hình cách mạng lúc đó, song đáng tiếc trong tổ chức thực hiện đã có những sai lầm cả về tư duy và phương pháp, có biểu hiện tả khuynh, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ…Hội nghị Trung ương 10 Khóa II (tháng 10/1956), nhận định: “Bộ Chính trị đã nêu lên một số sai lầm có tính nguyên tắc trong cải cách ruộng đất; do không bám sát thực tế, chủ quan, nóng vội dẫn đến nhiều xáo trộn, oan sai...”. Sau đó Trung ương Đảng đã đưa ra các yêu cầu chấn chỉnh sửa sai, khôi phục danh dự, xét lại án sai, bù đắp cho những người bị oan; đồng thời các lãnh đạo cao nhất trong Ban chỉ đạo Cải cách ruộng đất nhận trách nhiệm về mình và chịu kỷ luật nghiêm. Tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, công khai khuyết điểm, sai lầm và thực hiện kỷ luật nghiêm đối với cán bộ cao cấp của Đảng không những thể hiện bản lĩnh của Đảng Cộng sản chân chính, mà còn cho thấy sự tiên phong gương mẫu, dám chịu trách nhiệm của những người cộng sản. Đó là dũng khí của Đảng Cộng sản. Chính với dũng khí đó mà Đảng ta đã lấy lại lòng tin của Nhân dân và tiếp tục lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi trên mọi mặt trận.
Năm 1961, khi nhân dân miền Nam đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ, miền Bắc phải phát huy và thể hiện rõ vai trò là hậu phương lớn của cả nước, Đảng ta lại mở đợt chỉnh huấn trong toàn Đảng. Mục đích, nhiệm vụ của chỉnh huấn, được Hồ Chí Minh xác định: “Trung ương Đảng sẽ mở cuộc chỉnh huấn cho đảng viên, đoàn viên và tất cả mọi người, làm cho tất cả hiểu rõ hơn trách nhiệm làm chủ của mình, hiểu rõ nhiệm vụ sản xuất và tiết kiệm trong giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện phương châm “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, phê phán lối suy nghĩ cá nhân chủ nghĩa”4. Năm 1965, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta trở nên quyết liệt, để tập trung sức người, sức của cho tiền tuyến, trong quá trình chỉnh huấn Đảng, Người xác định: “Chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù nguy hiểm mà mỗi người chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo đề phòng và kiên quyết tiêu diệt. Chính vì vậy mà cuộc chỉnh huấn lần này của Đảng ta nhằm mục đích tẩy rửa chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng của giai cấp vô sản”5…
Sau khi đất nước thống nhất, thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta tiếp tục chăm lo công tác xây dựng Đảng; trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Trước hết nói về Đảng”. Điều này thể hiện mối quan tâm lớn nhất, sâu sắc nhất của Người về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền trong sạch, vững mạnh. Thể hiện trên ba nội dung lớn:
Thứ nhất, phải tăng cường đoàn kết, tính thống nhất trong Đảng- giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nhân tố quyết định sự thành công trong mọi nhiệm vụ “tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác”.
Thứ hai, phải phát huy dân chủ trong Đảng, tự phê bình và phê bình thường xuyên và nghiêm túc. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm túc, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất trong Đảng. Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Tự phê bình và phê bình để phát huy ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm làm cho Đảng mạnh lên, phải có động cơ, thái độ tự phê bình và phê bình đúng đắn vì sự phát triển và vững mạnh của Đảng.
Thứ ba, nguyên tắc cốt lõi trong xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền là hết sức coi trọng rèn luyện đạo đức cách mạng, kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân và những tiêu cực, thoái hóa trong Đảng.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại những giá trị cốt lõi nổi bật về vấn đề xây dựng và củng cố Đảng cầm quyền. Di chúc mang tầm nhìn vượt thời gian về yêu cầu phải xây dựng Đảng một cách toàn diện, thường xuyên liên tục. Quan điểm, tư tưởng của Bác “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”, đây là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng. Người khẳng định “Đảng ta là Đảng cầm quyền” và để làm tròn nhiệm vụ của một Đảng cách mạng, tiền phong, đáp ứng được nhiệm vụ lãnh đạo xã hội, Đảng phải luôn trong sạch, vững mạnh.
Tư tưởng ấy được Đảng ta quán triệt sâu sắc, bằng những việc làm thường xuyên, liên tục tự chỉnh đốn nội bộ, mở nhiều đợt xây dựng, chỉnh đốn sâu rộng. Việc chỉnh đốn Đảng được coi trong hơn từ Hội nghị Trung ương 6, Trung ương 7 (khóa 6) năm 1989, nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, trước tác động to lớn từ sự khủng hoảng, sụp đổ của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới.
Khi Liên Xô tan rã (8-1991), Đại hội VII đã xác lập Cương lĩnh 1991, Hội nghị Trung ương 3 (2-1992) đã ban hành Nghị quyết “Về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng”. Trong đó, chỉ ra những khuyết điểm đã trở thành nguy cơ không thể xem thường, nổi bật là: “một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động mất lòng tin, trong đó có một số người chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại muốn đi con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng, ăn chơi hưởng lạc”6… Cùng với triển khai nhiều chủ trương, giải pháp lớn để chỉnh đốn Đảng, Trung ương đã coi trọng: “Xây dựng đạo đức cách mạng và lối sống trong sạch của cán bộ, đảng viên trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao lưu quốc tế; chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng, tệ làm ăn gian dối, lối sống xa hoa, trụy lạc”7.
Trong nhiệm kỳ Đại hội lần thứ VIII, tại Hội nghị Trung ương Hội nghị Trung ương 6 lần 2, tháng 1-1999, Trung ương triển khai Nghị quyết Số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”.
Đến Hội nghị Trung ương 6 lần 2 (khóa VIII) tháng 1-1999, Trung ương triển khai Nghị quyết Số 10-NQ/TW, ngày 2-2-1999 “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”. Sự ra đời của Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII đã để lại dấu ấn vô cùng đậm nét trong công tác xây dựng Đảng. Ban Chấp hành Trung ương đã có một quyết định đặc biệt là phải tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bình và phê bình. Nghị quyết Hội nghị nêu rõ: “Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng đang bộc lộ một số yếu kém: sự suy thoái về tư tưởng chính trị; tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn.
Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm, bộ máy tổ chức của Đảng và Nhà nước chậm được củng cố và đổi mới. Để đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Đảng phải có biện pháp phát huy ưu điểm, kiên quyết sửa chữa các khuyết điểm, tiếp tục củng cố, chỉnh đốn, để ngày càng vững mạnh về mọi mặt, đặc biệt là về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, tổ chức và cán bộ”. Theo ông Phạm Thế Duyệt nguyên Ủy viên Thường vụ, nguyên Thường trực Bộ Chính trị “Cuộc kiểm điểm phê và tự phê bình trong Bộ Chính trị được làm rất nghiêm túc, quyết liệt, thẳng thắn tới mức dư luận bên ngoài lúc ấy đặt câu hỏi, người ta không hiểu trong nội bộ có việc gì. Bộ Chính trị phải kiểm điểm từ đồng chí Tổng Bí thư trở xuống” – ông Duyệt kể, đồng thời cho biết, đó là những cuộc kiểm điểm ấy “khác so với các cuộc sinh hoạt bình thường”. Từ các cuộc kiểm điểm này, quyết tâm chỉnh đốn Đảng lan toả ra toàn thể Ban Chấp hành Trung ương, ra toàn thể các cấp uỷ.
Trung ương quyết định gắn xây dựng chỉnh đốn Đảng với học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh tổ chức, triển khai đồng bộ các nhiệm vụ quan trọng về chỉnh đốn Đảng, Nghị quyết đã xác định nhiều nội dung, biện pháp cụ thể về đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, như: “Các tổ chức đảng phải thường xuyên giáo dục, quản lý, kiểm tra cán bộ, đảng viên về đạo đức, lối sống. Cán bộ, đảng viên phải tự giác rèn luyện đạo đức, lối sống cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; gương mẫu giữ gìn phẩm chất người chiến sĩ cộng sản, đề cao tinh thần đoàn kết, chống chủ nghĩa cá nhân; chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước; đồng thời, chú ý giáo dục, thuyết phục gia đình cùng thực hiện”, “Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu có hiệu quả”, “Thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình trong Đảng”8.
10 năm gần đây, Đảng ta tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bằng việc ban hành những quy định, quy chế trong Đảng với phương châm kết hợp giữa “xây” và “chống”, “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng và cấp bách thường xuyên. Đặc biệt chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, mà nguyên nhân cơ bản, sâu sa bắt nguồn từ chủ nghĩa cá nhân. Phối hợp đồng bộ các biện pháp về tư tưởng, chính trị và tổ chức, công tác cán bộ, pháp chế, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Hai Hội nghị Trung ương 4 của khóa XI và khóa XII đã ban hành nghị quyết “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, một lần nữa thể hiện quyết tâm cao của Đảng ta trong xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Nhìn lại quá trình xây dựng và chỉnh đốn Đảng thấy rõ, xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, từ sứ mệnh lịch sử của Đảng đối với dân tộc mà trong mọi thời kỳ cách mạng, Đảng ta đều thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong sạch, vững mạnh về mọi mặt.
Bài 2: Cú “huých” lớn vào “tảng băng chìm”
Trước khi Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI được ban hành, có dư luận cho rằng, còn có những “vùng cấm”, những “tảng băng chìm” chưa được động tới, có những vụ việc nổi cộm kéo dài nhiều nhiệm kỳ chưa được giải quyết. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết, nhiều góc khuất của phần “tảng băng chìm” đó đang bị dần đưa ra ánh sáng.
(đón đọc….)
TS. Nguyễn Văn Minh
Theo Báo điện tử Đảng Cộng sản
Đức Thi (st)
1. Ban Tuyên giáo Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Bắc Ninh: Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ với công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng - Giá trị lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012.
2. X.Y.Z (10-1947): “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.299.
3. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 7, tr.414.
4. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 13, tr.63.
5. Hồ Chí Minh: Sđd, tập 14, tr.469.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 52, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.86.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tập 52, tr.90.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Sđd, tập 58, tr.60-62.