Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn có niềm tin chắc chắn và khát vọng mãnh liệt về phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, kết hợp nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước ta ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”. Công cuộc xây dựng và phát triển đất nước đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức đan xen, đặc biệt là nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh để khơi dậy trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân Việt Nam khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

khoi day khat vong
Ảnh minh họa. Nguồn: TL

Khát vọng phát triển đất nước theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Thứ nhất, khát vọng cháy bỏng về xây dựng đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh; Nhân dân có cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc.

Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào là niềm tin mãnh liệt, là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”1. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành lẽ sống của dân tộc Việt Nam và chân lý của thời đại. Đồng thời, Người chỉ rõ: Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ; “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”2. Người có niềm tin tuyệt đối vào thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và mong muốn: Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn.

Trước lúc đi xa, lời căn dặn Người để lại trong bản Di chúc cũng thể hiện khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”3. Cuộc đời hoạt động, lãnh đạo đất nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một mục đích duy nhất là hy sinh phấn đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân đồng bào.

Thứ hai, xây dựng nền kinh tế vững chắc, phát huy nội lực để hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện rõ ràng, với sự đồng lòng của Đảng, Nhà nước và Nhân dân. Người chỉ ra các loại hình kinh tế, các hình thức sở hữu khác nhau, nhưng được gắn kết lại thành một chỉnh thể kinh tế - xã hội quá độ trong quá trình phát triển. Người có quan điểm khách quan và rất tiến bộ với kinh tế tư bản tư nhân trong nước vì giai cấp tư sản dân tộc “cũng muốn chống đế quốc và phong kiến”, cho nên “giai cấp công nhân cần phải vừa đoàn kết với họ, vừa đấu tranh với họ để bảo vệ quyền lợi của công nhân. Có như vậy, giai cấp tư sản dân tộc mới phát triển được tác dụng cách mạng của họ và phát triển kinh tế của họ”4.

Quan điểm phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh quán triệt và kiên trì thực hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng, phát triển đất nước. Tự lực, tự cường, xây dựng tiềm lực trong nước là điều kiện để mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế. Người nhấn mạnh: “Phương châm của ta hiện nay là: Tự lực cánh sinh là chính, việc các nước bạn giúp ta là phụ. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta. Song nhân dân và cán bộ ta tuyệt đối chớ vì bạn ta giúp nhiều mà đâm ra ỷ lại”5.

Thứ ba, tranh thủ tối đa ngoại lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, có chính sách mở rộng hợp tác quốc tế.

Việc mở cửa, hợp tác quốc tế nhằm tranh thủ ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của Nhân dân là vô cùng quan trọng. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến việc đầu tư, phát triển kinh tế, kinh doanh của người nước ngoài tại Việt Nam: “Các bạn, người buôn bán, kinh doanh, tiểu thương, tiểu chủ, công nhân và trí thức, đã chung sống với nhân dân Việt Nam. Các bạn đã khai cơ lập nghiệp ở Việt Nam. Những hoạt động chính đáng về kinh tế và văn hóa của các bạn cũng có lợi cho Việt Nam. Vì vậy tôi khuyên các bạn: Các bạn cứ yên lòng làm ăn như thường. Nhân dân và Chính phủ Việt Nam sẽ giúp đỡ và bảo hộ các bạn”6. Mở rộng hợp tác quốc tế trong xây dựng và phát triển kinh tế là một tư tưởng lớn và nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người khẳng định: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa “sẽ đứng với tất cả các nước bầu bạn” và “sẽ giao dịch với tất cả các nước nào trên thế giới muốn giao dịch với Việt Nam một cách thực thà”7.

Tháng 12/1946, trong Lời kêu gọi gửi Liên hợp quốc, Người đã tuyên bố chính sách mở cửa của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; nước Việt Nam sẵn sàng mở rộng các cảng, sân bay và đường sá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc tế; nước Việt Nam chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của Liên hợp quốc…”8. Điều này thể hiện tầm nhìn vượt trước của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; mở rộng hợp tác kinh tế quốc tế để phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ tư, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phát triển đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu, phải xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập, tham khảo kinh nghiệm của nước khác. Theo Người, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp trên tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Người chỉ rõ: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”9.

Nhờ đứng vững trên lập trường, quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tổng kết những bài học kinh nghiệm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta, dự báo một cách khoa học xu thế vận động, phát triển của thời đại, Đảng ta mới nắm bắt được quy luật phát triển khách quan của cách mạng Việt Nam, đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa phù hợp với tình hình và điều kiện của nước ta.

Tiếp tục khơi dậy khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc

Quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhấn mạnh: “Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực... thúc đẩy đổi mới sáng tạo, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước”10. Để việc học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc thực sự hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề ra, cần thực hiện tốt một số nôi dung sau:

Một là, chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Đây là công việc thường xuyên, là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và mỗi cán bộ, đảng viên. Thông qua công tác tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước; để Đảng ta xứng đáng hơn nữa với vai trò lãnh đạo và sự tin cậy của Nhân dân; Nhân dân tin yêu Đảng, hăng hái tham gia xây dựng, phát triển đất nước hùng cường, thịnh vượng.

Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục để cán bộ, đảng viên và Nhân dân nhận thức rõ bổn phận và trách nhiệm của mình trong xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên, đấu tranh có hiệu quả với mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, bệnh tiêu cực, quan liêu, cơ hội, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, mất đoàn kết nội bộ, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.

Hai là, đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình hành động của cấp ủy, gắn với nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.

Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ chính trị của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị; tập trung giải quyết các khâu đột phá và các trọng tâm, bức thiết đang đặt ra. Nêu cao trách nhiệm học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong thực hiện nghị quyết, chỉ thị, chương trình hành động của cấp ủy, tổ chức đảng, “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”; cán bộ, đảng viên có chức vụ càng cao càng phải tiên phong, gương mẫu. Đặc biệt, mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển đất nước của bản thân và của địa phương, cơ quan, đơn vị; bởi đây là điều kiện tiên quyết để khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong Đảng và trong toàn xã hội. Đồng thời, cần bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp gắn với khát vọng phát triển đất nước, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện.

Ba là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước.

Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước của các cấp, các ngành để tạo sự lan tỏa, khơi dậy tinh thần cống hiến, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tất cả vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Mỗi cán bộ, đảng viên cần nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với Nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”; thực hiện hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, làm cho tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, giữ vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội.

Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động khơi dậy khát vọng phát triển đất nước trong tất cả các tầng lớp nhân dân ở trong nước và cộng đồng người Việt Nam, kiều bào ta ở nước ngoài; biến quyết tâm “sánh vai với các cường quốc năm châu” của Chủ tịch Hồ Chí Minh thành sức mạnh và hành động thực tiễn của mọi tổ chức, mọi lực lượng. Có cơ chế khuyến khích, khen thưởng những người dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, có giải pháp đột phá để thực hiện khát vọng phát triển đất nước, mang lại nhiều giá trị cho xã hội.

Bốn là, tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu, vận dụng, phát triển và bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Tập trung nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, xác định và triển khai xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người Việt Nam trong thời kỳ mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại, gắn lý luận với thực tiễn. Nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị của các thế lực thù địch và tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, định hướng chính trị để cán bộ, đảng viên và Nhân dân tích cực đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, gắn với thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 4, khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, hiệu quả. Phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan báo chí, truyền thông và Nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong việc nêu gương về ý chí, khát vọng và thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

TS. Khúc Văn Hưởng - Trường Đại học Chính trị, Bộ Quốc phòng
Theo Tạp chí điện tử tổ chức nhà nước
Tâm Trang (st)

Ghi chú:
1,2,8. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 4, Nxb CTQG-ST, H.2011, tr.187, tr.64, tr.523.
3. Sđd, tập 15, tr.131, tr.624.
4. Sđd, tập 8, tr.259.
5,9. Sđd, tập 10, tr.56-57, tr.391.
6. Sđd, tập 9, tr.80.
7. Sđd, tập 6, tr.46.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, Nxb CTQG-ST, H.2021, tr.110

Bài viết khác: