Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trọng dụng người tài, phát huy hiệu quả đức độ, tài năng của các nhân sĩ, trí thức tham gia cách mạng, kháng chiến và kiến thiết đất nước.
Trước hết, Bác Hồ là một hiền tài.
Bác Hồ là tấm gương sáng trong lịch sử về sự yêu chuộng và sử dụng người tài.
Điều ấy có căn nguyên sâu xa. Bác sinh ra trong một gia đình khoa bảng, trên một quê hương mà lòng yêu nước, thương người, đức trung hiếu được coi là giá trị bậc nhất của con người. Với tâm hồn thuần khiết, với sự trau dồi đạo đức luôn luôn đi liền với bồi bổ tri thức, lại có một mục đích cao cả cứu nước, cứu dân, Bác Hồ đã phấn đấu để trở thành một người hiền, đương nhiên càng biết yêu quý, trân trọng người hiền tài, hiểu rõ vai trò của nhân tài đối với đất nước.
Thứ hai, Bác là người tự do, tự tại, không sợ tranh giành địa vị.
Người đã tự giải phóng để thành một người tự do tuyệt đối; ung dung tự tại như một ông tiên, thoát vượt khỏi mọi ràng buộc của tiền tài, địa vị và các vật ngoại thân khác; tự nhiên nhi nhiên. Trả lời các nhà báo nước ngoài đầu năm 1946, Bác Hồ nói: "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Bây giờ phải gánh chức Chủ tịch là vì đồng bào ủy thác thì tôi phải gắng sức làm, cũng như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui. Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi" (Báo Cứu quốc, số 147, ngày 21-1-1946).
Chủ tịch Hồ Chí Minh với đại biểu trí thức dự Hội nghị chính trị đặc biệt, tháng 3-1964.
Thứ ba, Bác là người hiểu và thấm nhuần chân lý: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng. Muốn kháng chiến, kiến quốc phải cần đến người tài giỏi. Đây là một quan điểm, một tư tưởng rất lớn, đánh giá đúng và đề cao vai trò của đội ngũ trí thức mà nhiều khi, nhiều nơi, do đề cao giai cấp công-nông, làm lu mờ vai trò trí thức, thậm chí đẩy họ ra khỏi lực lượng nòng cốt của cách mạng, làm chậm bước phát triển của đất nước. Báo Cứu quốc ngày 20-11-1946 đăng bài "Tìm người tài đức" của Bác Hồ. Đó là một mệnh lệnh của Chính phủ, một chiếu cầu hiền của thời đại cách mạng.
Trân trọng và khéo sử dụng người tài
Sự trân trọng và khéo dùng người tài của Bác thể hiện ở hai điểm: 1-Xây dựng tổ chức Đảng, tổ chức Nhà nước có nhiều hiền tài, có khả năng tập hợp, đoàn kết dân chúng; 2-Dùng tâm thành để cuốn hút mọi người có tài năng ra giúp nước, đặt việc phù hợp với khả năng của họ, không phân biệt giai cấp, không thành kiến quá khứ.
Trong Chính phủ lâm thời, rồi đến Chính phủ Liên hiệp lâm thời, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến (do Quốc hội khóa I bầu) đều dành nhiều ghế bộ trưởng là những chuyên gia, những nhà trí thức không phải đảng viên Đảng Cộng sản như: Nguyễn Văn Tố làm Bộ trưởng Cứu tế xã hội, sau là Trưởng ban Thường trực (Chủ tịch) Quốc hội (người thay Nguyễn Văn Tố làm Thường trực Quốc hội là Bùi Bằng Đoàn, trước đây là Thượng thư Bộ Hình); Huỳnh Thúc Kháng, Bộ trưởng Nội vụ, có thời gian là Quyền Chủ tịch nước; Vũ Trọng Khánh rồi Vũ Đình Hòe thay nhau giữ ghế Bộ trưởng Tư pháp... Trong 15 thành viên Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến, chỉ có 3 người thuộc Mặt trận Việt Minh là Hồ Chí Minh (Chủ tịch), Lê Văn Hiến (Bộ trưởng Tài chính) và Đặng Thai Mai (Bộ trưởng Giáo dục).
Về phương diện cá nhân, sức cuốn hút của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với trí thức, trước hết là ở lý tưởng cao đẹp, ở cả cuộc đời vì dân, vì nước của Người. Cùng đó là sự tha thiết, chân thành. Với các bậc chí sĩ như: Nguyễn Văn Tố, Huỳnh Thúc Kháng, Bùi Bằng Đoàn, Võ Liêm Sơn... có được người nào theo kháng chiến, Bác đều ứa nước mắt mừng rỡ. Bài thơ "Tặng Võ công" (Võ Liêm Sơn) có câu: Cụ đến tôi mừng rỡ/ Cụ đi tôi nhớ mong là một ví dụ nói lên tấm lòng của Bác. Hay trong thư Bác viết cho cụ Bùi Bằng Đoàn có đoạn: "Thưa ngài. Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi mời ngài làm cố vấn cho tôi, để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc ngài mạnh khỏe. Kính thư".
Sau đó, Bác Hồ lại gửi một bức thư khác, đề là “Lời tâm tri” chỉ vẻn vẹn một câu thơ: "Thu thủy tàn hà thính vũ thanh" khiến cụ Bùi không ở ẩn nữa mà quyết định đi theo Cụ Hồ. Tại sao câu thơ có ảnh hưởng lớn đến thế?
Nhà thơ Lý Thương Ẩn đời Đường có bài thơ “Ở đình nhà họ Lạc nhớ hai em họ là Thôi Ung, Thôi Cổn” như sau:
Trúc ổ vô trần thủy hạm thanh,
Tương tư điều đệ cách trùng thành.
Thu âm bất tản sương phi vãn,
Lưu đắc khô hà thính vũ thanh.
Tôi tạm dịch là:
Nước mướt xanh hiên, trúc mướt bờ
Cách trùng thành quách, khổ tương tư
Bóng thu không tản, sương bay hết
Còn lá sen tàn lắng tiếng mưa!
Bác mượn câu kết, có sửa đi mấy chữ, thành “Thu thủy tàn hà thính vũ thanh”, vừa tóm được ý toàn bài, vừa nói lên nỗi lòng thao thiết mong người tài như hồ cạn mong mưa. Cũng có thể hiểu một ngụ ý sâu xa: Dòng nước mùa thu (cách mạng) đã làm tàn chế độ cũ (tàn hà), đang nghe tất cả mọi giọt nước hòa vào (thính vũ thanh).
Vì sự tri âm ấy mà mọi người đều dốc lòng theo Bác, dốc lòng cho sự nghiệp cách mạng. Được sống gần Bác, những bậc túc nho hay các vị đại trí thức Tây học đều thấy Bác Hồ không phải chỉ là một nhà cách mạng mà còn là một bậc thánh nhân. Ở gần Bác, các cụ không chỉ thấy Bác uyên thâm Hán học mà còn rất thuộc ca dao, tục ngữ, gặp chuyện gì cũng thường lẩy Kiều.
Cụ Bùi nói với Bác Tôn: “Cụ Hồ thuộc về thiên nhân, tuệ giác”! Còn cụ Huỳnh thì kể với bà con Quảng Nam: “Dân ta có Cụ Hồ quả là hồng phúc. Tôi đã vào loại sáng, nhưng Cụ Hồ lại sáng hơn tôi nhiều”; "Cụ Hồ có những người giúp việc thông minh lắm, giỏi lắm, tin tưởng lắm. Cụ Hồ rất vĩ đại”...
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với các thành viên Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ngày 3-11-1946. Ảnh tư liệu
Năm 1946, Bác Hồ sang Pháp với mục đích ngăn chặn cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp. Dù câu chuyện không thành, một nền hòa bình cho Đông Dương bị bỏ lỡ nhưng Bác đã cảm hóa được một đội ngũ đông đảo trí thức lớn về nước, như: Trần Đại Nghĩa (Phạm Quang Lễ), Trần Hữu Tước, Võ Quý Huân, Võ Đình Quỳnh, Lê Văn Thiêm, Hoàng Xuân Nhị... Họ, cùng với trí thức trong nước, là trụ cột của các ngành khoa học cơ bản, các ngành kỹ thuật, luyện kim, y dược, quân giới... phục vụ đắc lực cho công cuộc kháng chiến và mở trường đại học đào tạo các thế hệ trí thức cách mạng. Lớp Tây học này đều có tên tuổi ở nước ngoài nhưng gặp Bác Hồ đều trọng vì nghĩa, phục vì tài. Nghĩa lớn của Người như non cao, tài năng của Người như biển rộng. Trong hồi ký “Tôi được gặp Bác Hồ ở Paris năm 1946”, GS Trần Hữu Tước kể lại rằng, ông và nhiều nhà báo phương Tây, nhiều Việt kiều ở Pháp đã bị hút hồn, không chỉ vì nội dung câu chuyện Bác nói mà còn ở tiếng Pháp giọng Paris, thoắt lại chuyển sang tiếng Anh như người bản xứ.
GS Hồ Đắc Di (1900-1984), học ở Pháp từ năm 1918 đến 1932, giáo sư y học đầu tiên và duy nhất của Việt Nam trước năm 1945, coi quãng đời ý nghĩa nhất của mình là quãng đời theo Chủ tịch Hồ Chí Minh phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Trong cuốn hồi ký "Để tâm hồn được thanh thản", GS Hồ Đắc Di viết: “Càng sống lâu, càng suy ngẫm, càng hiểu biết rộng, càng nhìn thấu kim cổ đông tây, ta càng thấy rõ Bác Hồ của chúng ta quả là bậc vĩ nhân của các vĩ nhân. Theo tôi, Người là Einstein về mặt đạo đức... Nếu như có một cuộc đời mà mỗi phút giây trôi qua đều có ý nghĩa nhân lên nghìn lần, mỗi chúng ta đều yêu thương tới say đắm và thèm sống cuộc sống đến mấy lần cuộc sống ấy vẫn chưa đủ... Phải, nếu quả có một cuộc đời như thế thì dù điều đó chỉ dành cho đời con cháu chúng ta mai sau, ta cũng sẵn sàng hiến dâng cả đời mình... Nhìn lại chặng đường đời khá dài mà tôi đã trải qua, thật chưa bao giờ tôi thấy mình được sống thoải mái nhất và trọn vẹn nhất, ý nghĩa một đời người như những tháng năm đi theo Cách mạng”. Chữ “Cách mạng” ông viết hoa, như viết hoa sự thăng hoa, ý nghĩa cuộc sống mà ông tôn thờ.
Nguyễn Sỹ Đại
Theo Tạp chí Sự kiện và nhân chứng
Đức Thi (st)