Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm, sự quan tâm đặc biệt dành cho phụ nữ. Bác đã tự hào rằng "Dân tộc Việt Nam là dân tộc anh hùng... Phụ nữ Việt Nam là phụ nữ anh hùng". Và trong tác phẩm "Ðường Kách mệnh", Bác cũng từng viết: "Ông Các Mác nói rằng: Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà không có phụ nữ giúp vào, thì chắc không làm nổi: "ông Lê-nin nói: Ðảng cách mệnh phải làm sao dạy cho đàn bà nấu ăn cũng biết làm việc nước, như thế cách mệnh mới gọi là thành công...".

nhung-nguoi-phu-nu-gap-bac
Bác Hồ trò chuyện thăm hỏi, với phụ nữ dân tộc vùng cao - Ảnh: TƯ LIỆU

            Trải qua thời gian, phụ nữ Việt Nam đã dần khẳng định vai trò, vị thế trong sự nghiệp đấu tranh bảo vệ Tổ quốc cũng như xây dựng đất nước. Lật lại từng trang sử, chúng ta được biết đến những câu chuyện về những người phụ nữ may mắn được gặp Bác Hồ kính yêu. Mỗi câu chuyện đều rất mực giản dị nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Người phụ nữ dân tộc Nông Thị Trưng

Từ lúc mới về nước, sống và hoạt động bí mật ở Pắc Bó, Bác đã quan tâm và đào tạo cán bộ nữ. Khi ấy, bà Nông Thị Trưng (tên thật là Nông Thị Bảy, dân tộc Tày, sinh năm 1920, quê xã Phú Ngọc, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng) đã có cơ hội được gặp Bác Hồ và được Bác dạy về cách mạng. Sau này, nhớ về hồi ức đó, Bà Trưng đã viết: “Đến Pắc Bó, chưa kịp nghỉ ngơi, anh Đại Lâm, người giữ trạm đầu nguồn đã đưa chúng tôi đến gặp “Ông Ké”. Cụ hỏi gia cảnh rồi khuyên: “Từ nay cháu đã có gia đình lớn là cách mạng. Cháu phải học và hoạt động chống giặc. Mình lấy lại độc lập rồi cuộc sống sẽ khác. Từ đó, tôi ở lại Pắc Bó, mỗi ngày vào lán của Bác học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện cộng sản đến cả cách ứng xử hàng ngày. Bác dặn đi dặn lại: “Đừng làm việc gì khiến dân mất lòng tin”. Tám tháng Bác chỉ dạy, tôi học được nhiều hơn mấy năm tập trung học lý luận sau này. Tôi trưởng thành là nhờ những bài học giản dị, thiết thực đó”.

Tại Căn cứ cách mạng, bà Trưng không biết người bà hay tiếp xúc chính là Bác Hồ. Bà chỉ biết chú Thu và gọi Chú Thu, chào Chú Thu mỗi lần đến gặp Chú. Mãi sau này mồng 2 tháng 9 năm 1945, chồng bà đưa cho bà xem bức ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập ở vườn hoa Ba Đình, bà mới nhận ra Chú Thu, vậy ra Chú Thu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bà kể lại: Khi ấy, tôi oà khóc, sung sướng quá vì thật không ngờ tôi đã được lãnh tụ dạy bảo những ngày đầu theo cách mạng, lại được nhận là cháu, được đặt tên mới và được kết nạp Đảng. Ơn này lớn lắm, làm sao mà đền đáp được.

Ngày Bác ra đi vào cõi vĩnh hằng, bà Trưng tham gia Đoàn Cán bộ và nhân dân Cao Bằng về Hà Nội dự tang lễ. Bà là một trong số nhiều người vinh dự được túc trực bên linh cữu Bác hai lần (sáng và chiều ngày mồng 8 tháng 9 – 1969). Bà chia sẻ: Bên linh cữu Bác, nước mắt chảy ròng ròng, tôi thầm thưa trước anh linh Người: “Chú Thu ơi, Bác Hồ muôn vàn kính yêu. Cháu Trưng đang bên Bác, vâng lời Bác cháu đã “ra công học tập”, phấn đấu trọn đời, đem sức nhỏ nhoi của mình “giúp nước non nhà”, xứng đáng là cháu gái, là học trò yêu quý, trung thành của Chú Thu năm xưa.

Anh hùng Phạm Thị Vách

Báo chí Hà Nội thời ấy viết nhiều về Phạm Thị Vách, một cô gái nông dân hai lần được tặng Huy hiệu Bác Hồ. Sinh năm 1940 tại xã Hùng Cường, huyện Kim Động, tỉnh Hưng Yên, 17 tuổi, Phạm Thị Vách đã nổi tiếng trong các phong trào thủy lợi Nghiêng đồng đổ nước ra sông, Vắt đất ra nước thay trời làm mưa. 18 tuổi, là kiện tướng trên công trường thủy lợi Bắc Hưng Hải. Cuối năm 1958, về thăm công trường thủy lợi nổi tiếng này, Hồ Chủ tịch đã gửi Huy hiệu Bác Hồ tặng kiện tướng Phạm Thị Vách.

Năm 1960, Bác đích thân trao Huy hiệu thứ hai cho bà. Dù đã ngoài 70 tuổi, bà Vách vẫn nhớ như in: “Tôi không thể quên được ngày hôm đó, Bác về Hưng Yên dự Hội nghị công tác thủy lợi toàn miền Bắc (lúc đó Hưng Yên luôn dẫn đầu về làm thủy lợi). Sau khi nghe báo cáo thành tích, Bác hỏi Bí thư Tỉnh ủy Lê Quý Quỳnh về những điển hình nữ có nhiều không? Bí thư dẫn tôi lên. Bác cười tươi lắm, gọi tôi là “bé Vách” rồi Bác hỏi hội nghị “Mọi người có đồng ý để Bác tặng bé Vách Huy hiệu lần thứ hai không? Cả hội trường hô to “Đồng ý ạ!”, đứng dậy vỗ tay không ngớt. Trên sân khấu, Bác tự gắn Huy hiệu cho tôi. Bác căn dặn: “Cháu làm tốt rồi, học tập tốt rồi thì phải làm tốt hơn nữa. Phải gần gũi lắng nghe quần chúng, học tập quần chúng để mà làm”. Từng chia sẻ về kỷ niệm này, bà Vách nói: “Thật là một vinh dự lớn lao. Nó như một bước ngoặt trong cuộc đời tôi”. Rồi bà tâm sự: “Từ đó tôi luôn nhủ với lòng mình phải cố gắng hoàn thành xuất sắc mọi công việc được giao”.

Vinh dự được gặp Bác nhiều lần, hình ảnh Bác, những lời dạy của Bác vẫn luôn trong lòng của người nữ Anh hùng. Bà kể: Rồi đến lúc Bác mất, tôi cũng được túc trực bên linh cữu của Bác. Nhìn Bác, tôi nghẹn ngào, đôi chân không đứng vững được. Giá như Bác sống thêm mấy năm nữa, được chứng kiến Bắc - Nam sum họp một nhà thì vui sướng biết bao. Sống trong một đất nước thống nhất mỗi người chúng ta hôm nay cần sống và làm việc theo lời dạy của Bác. Làm được điều đó, tôi nghĩ công việc nào cũng thành công”.

Phạm Thị Vách học hết cấp III bổ túc văn hóa, lần lượt làm chủ nhiệm hợp tác xã, chủ tịch xã, bí thư đảng ủy xã. Tháng 05.1962, tại Đại hội thi đua yêu nước toàn quốc lần thứ 3, “bé Vách” 22 tuổi, được phong tặng Anh hùng Lao động. Bà đã không ngừng học tập và làm việc, có nhiều thành tích, là đại biểu Quốc hội khóa 3, 4, 5.

Anh hùng Vũ Thị Tỵ

Một nữ Anh hùng Lao động khác cũng được gặp Bác khi còn rất trẻ, đó là bà Vũ Thị Tỵ Theo lời bà, lần đầu tiên bà được gặp Bác Hồ là khi bà mời 14 tuổi.  Lúc ấy, bà vẫn còn là cô bé thiếu niên tham gia hội diễn văn nghệ đón Bác về thăm Hưng Yên tại thị xã. Ngày ấy, đồng áng quê hương bị hạn hán, người dân đói khổ. Đứng từ xa nghe Bác nói chuyện, nhìn Bác ân cần động viên nhân dân và nhất là khi Bác biểu dương chị Phạm Thị Vách ở Kim Động là Anh hùng Lao động xuất sắc, bà rất cảm động và hào hứng. Ngay từ giây phút ấy, bà đã nuôi ước mơ trở thành người lao động xuất sắc nhất. Thực hiện ước mơ đó, bà đã trở thành đội trưởng đội thủy lợi địa phương, với bao sáng kiến lao động hiệu quả, tăng năng suất lao động, đưa mùa màng bội thu về với đồng đất quê hương với 7 năm là chiến sĩ thi đua toàn quốc, 8 năm được bầu là kiện tướng.

Khi được chúng tôi hỏi về những kỷ niệm được gặp Bác Hồ, bà không khỏi xúc động. Bà nói: "3 lần được gặp Bác, được trò chuyện, được Bác động viên như những chỉ dẫn để tôi phấn đấu trong lao động xây dựng đất nước...". Có thể nói, những câu chuyện cuộc đời của bà, tình yêu lao động và những kỷ niệm sâu sắc về Bác Hồ đã trở thành bài học quý giá cho lớp trẻ, cho bầy cháu nhỏ của bà.

Anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế

Trên tuyến đường 12A ở huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, trong một ngôi nhà, chủ nhà treo trang trọng tấm ảnh lớn, hàng chục năm rồi vẫn nổi bật trước bó hoa tươi thắm là Bác Hồ và cô gái đều cười rất tươi. Đó là tấm ảnh chụp tại Đại hội Thanh niên xung phong toàn quốc lần thứ 4 tại Hà Nội, tháng 07.1967, một tay máy đã chớp ngay khoảnh khắc nữ TNXP Nguyễn Thị Kim Huế từ Quảng Bình ra, ôm bó hoa chạy ào lên sân khấu khi Bác Hồ vừa bước ra. Tấm ảnh này được Nhà in Trần Phú in và phát hành hàng vạn tấm.

Nguyễn Thị Kim Huế sinh năm 1939, sớm mồ côi, được bên ngoại nuôi nhưng thời đó ai cũng là nông dân nghèo nên phải sớm lao động kiếm sống. Năm 1965, máy bay Mỹ bắn phá ác liệt, Nguyễn Thị Kim Huế đã xin chồng, tình nguyện vào TNXP phục vụ trên tuyến đường 12A, huyện Tuyên Hóa, Quảng Bình quê hương. Đơn vị có 182 người, trải qua nhiều trận đánh, họ đã san lấp mặt đường, bảo đảm thông đường nhanh cho xe ra tiền tuyến. Trận B52 đánh phá ác liệt ngày 03.07.1966 trên đoạn đường 12A đã làm hàng chục người chết, bị thương. Nguyễn Thị Kim Huế cùng đồng đội vừa san lấp mặt đường, vừa tìm xác người chết, vừa cứu thương và rà phá bom nổ chậm, bom từ trường trong máu, nước mắt và khói bụi mịt mù suốt mấy ngày. Chị cũng bị bom vùi lấp mấy lần và bị thương. Sau những trận sinh tử quyết liệt đó, ngày 01.01.1967, Nguyễn Thị Kim Huế được phong tặng Anh hùng Lao động.

nhung-nguoi-phu-nu-gap-bac-2
Nữ Anh hùng Nguyễn Thị Kim Huế trong một lần gặp Bác

Nguyễn Thị Kim Huế vinh dự được gặp Bác Hồ 5 lần. Lần đầu tiên là vào tháng 11.1966, tỉnh cử chị ra tập huấn ở Hưng Yên. Trong buổi kiểm tra tập bắn đạn thật, chị bắn 3 viên đạn vào vòng tâm. Chị kể: “Lúc ấy có một ông già tóc bạc phơ, mặc bộ bà ba, đi dép cao su đến gần tôi, hỏi: Cháu có bí quyết gì bắn súng giỏi như vậy? Tôi thật thà trả lời: Cháu chỉ bình tĩnh, tự tin, nín thở, bóp cò thôi ạ”. Buổi chiều họp tổng kết khóa học, ông già ấy khoác bộ kaki sờn cũ, khen tôi: Con gái Quảng Bình sản xuất giỏi, làm gì cũng giỏi. Lúc ấy, tôi mới biết đó là Bác Hồ!”.

Gặp Bác Hồ lần thứ 3 tại Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua tháng 01.1967, Quảng Bình có ba phụ nữ anh hùng: Mẹ Suốt, Nguyễn Thị Kim Huế và Trần Thị Lý. Tháng 07.1967, tại Đại hội TNXP toàn quốc lần thứ 4, Nguyễn Thị Kim Huế, được cử ôm hoa lên tặng Bác và chụp tấm ảnh đẹp. Trước khi đi dự lễ Kỷ niệm 50 năm Cách mạng Tháng Mười Nga, chị và các đại biểu được gặp Bác và nghe Bác dặn dò. Trong buổi họp báo quốc tế ở Liên Xô, có nhà báo hỏi: “Dũng sĩ diệt Mỹ sao nhỏ bé thế?” Kim Huế khảng khái: “Tôi tuy nhỏ bé nhưng tinh thần không nhỏ. Chúng tôi không sợ kẻ thù, lớp này hy sinh, có lớp khác lên thay”. Về nước, Bác khen chị trả lời thông minh, đanh thép.

Lần cuối cùng, bà Nguyễn Thị Kim Huế được gặp Bác Hồ là lúc chuẩn bị sang Liên Xô. Đoàn của bà được gặp để nghe Bác dặn dò. Lần đó, Đoàn được Bác mời cơm tại Phủ Chủ tịch. Bà Nguyễn Thị Kim Huế nhớ lại: “Trong bữa cơm, một hạt cơm vô tình bị rơi ra ngoài, Bác cầm lên và dặn: Hạt cơm từ hạt gạo mà ra. Người nông dân làm ra hạt gạo là biết bao nhiêu công sức. Từ cày bừa, gieo hạt đến khi thu hoạch đem xay giã, giần, sàng, nấu chín mới thành hạt cơm Bác cháu ta ăn. Vì vậy hạt gạo là hạt ngọc...”.

Nữ dũng sỹ Ngô Thị Tuyết

          Từng 7 lần gặp Bác Hồ, bà Ngô Thị Tuyết (SN 1949, đang sống tại TP Đà Nẵng) chia sẻ: “Bảy lần gặp Bác, mỗi lần tôi lại có được những bài học quý từ những lời dặn dò, bảo ban ân cần của Người. Bài học khắc sâu nhất trong tôi là sống yêu thương con người và không lãng phí”.

          Lần đầu tiên, bà Tuyết gặp Bác Hồ là năm 1967 tại Thủ đô Hà Nội. Bà kể lại: Bác hỏi: “Cháu còn nhỏ thế làm thế nào mà có thể tham gia chiến đấu?”, bà đã trả lời: “Bọn chúng nghĩ cháu là trẻ con không biết gì nên cháu càng dễ tiếp cận nắm bắt thông tin của địch báo về đơn vị, lại lấy vũ khí, đạn dược từ đồn địch đem về làm vũ khí chiến đấu cho đơn vị”. Bác lại hỏi: “Chiến đấu giữa mưa bom bão đạn bao hiểm nguy cháu có sợ không?”, bà trả lời: “Cháu sợ. Nhưng lòng căm thù giặc sâu sắc hơn nên cháu quyết chiến đấu đến cùng”.

          Bà bảo Bác luôn quan tâm tới mọi người xung quanh từ những điều nhỏ nhặt nhất. Bà chia sẻ: Như lần đầu tiên gặp Bác, quá mừng rỡ, quýnh quáng thế nào tôi lại làm đứt quai dép, tôi cứ để quai dép đó mà chạy theo Người. Đến chiều quay về, đã thấy đôi dép lành lặn, lại đã có thể xỏ chân mang vào. Người dặn dò đứa cháu nhỏ miền Nam ra Bắc nhớ mặc áo thật ấm vì thời tiết ngoài này lạnh hơn. Lần nào gặp, sức khỏe tôi mạnh hay yếu, Bác đều nhận thấy.

Lần cuối, bà gặp Người là trước lúc Người ra đi chừng hai tháng. Vào viếng Bác lại nhớ lời Người trong lần gặp cuối cùng. Lần ấy, thấy Bác yếu, tôi đã khóc, Bác mắng: “Gặp Bác phải mừng chứ sao lại khóc”. Bác không lo sức khỏe mình, vẫn nhận ra: “Đợt này cháu khỏe hơn trước đấy”... Lời dạy bảo của Bác không chỉ là lời nói, mà từ chính lối sống của Người mà tôi cảm nhận trong những lần vinh dự được gặp Bác, và tôi luôn khắc ghi trong lòng, như Bác Hồ luôn sống mãi trong tim tôi”.

Bà Lê Hiền Đức

Cuộc chiến chống tham nhũng đang là vấn đề nóng của nước ta. Trong cuộc đấu tranh này, nổi lên những con người đáng khâm phục như bà Lê Hiền Đức.

Mới 13 tuổi, Phạm Thị Dung Mỹ, quê Bắc Ninh đã tham gia cách mạng. Năm 1950, bà được phân công dịch mật mã các tài liệu cho Bác Hồ. Được làm việc gần Bác, bà càng xúc động và cảm phục Người. Với công việc được giao, bà cố gắng hoàn thành xuất sắc những bản mật mã. Và chính Bác là người đã đặt cho bà tên Lê Hiền Đức. Sau đó, bà đi học sư phạm.

Bà Đức kể lại câu chuyện ngày xưa: Trước khi đi học 3 ngày, Bác cho gọi bà lên. Bác lấy hộp thuốc lá ra, trong hộp còn hai điếu thuốc, Bác bỏ hai điếu còn lại trong hộp ra mặt bàn và nói: “Bác cho cháu hộp này để cháu đựng kim chỉ”. Bà quá xúc động khi một vị lãnh tụ như Bác quan tâm tỉ mỉ, ân cần như một một người mẹ chăm sóc con gái. Bà nhớ như in lời Bác dặn: “Là con gái thì phải biết may vá thêu thùa, nữ công gia chánh”.

Ra trường, bà Lê Hiền Đức dạy ở Trường tiểu học Chu Văn An, Hà Nội. Năm 1958, Bác Hồ đến thăm Trường, bà Đức được ẵm đứa con gái đầu chưa đầy tuổi ra đón Bác.

nhung-nguoi-phu-nu-gap-bac-3
Bà Đức với niềm vui khi được gặp lại Bác

Năm 1984, nghỉ hưu, bà Lê Hiền Đức tích cực tham gia chống tham nhũng. Bà là người chủ động chống tham nhũng ở mọi nơi mọi lúc, một cách có bài bản và có hiệu quả, bất chấp bị đe dọa, nguy hiểm. Hơn 20 năm kiên trì làm việc, Bà trở thành địa chỉ có uy tín để nhiều người ở Hà Nội và các tỉnh chung quanh đến gặp, gửi thư nhờ bà giúp đỡ cách chống tiêu cực. Vì vậy, bà Lê Hiền Đức được đưa vào chung kết Giải thưởng Liêm chính quốc tế 2007 (2007 Integrity Awards). Giải Liêm chính quốc tế (TI), trụ sở đặt tại Berlin, Đức, là tổ chức xã hội được thành lập năm 1993 hoạt động nhằm tạo ra thế giới không có tham nhũng. Tại Diễn đàn chống tham nhũng 2007 tổ chức tại Hà Nội, Đại sứ Thụy Điển tại Việt Nam, ông Rolp Berman nói: “Việt Nam cần tự hào vì có những công dân như bà Lê Hiền Đức, là người không những chỉ muốn Đảng và Nhà nước chấm dứt nạn tham nhũng, mà còn thể hiện quyết tâm mạnh mẽ đóng góp cụ thể vào cuộc chiến chống tham nhũng. Hy vọng bà sẽ là tấm gương điển hình cho nhiều người Việt Nam khác”.

Ngày 12.12.2007, Ban Tổ chức Minh bạch thế giới thông báo bà Lê Hiền Đức chính thức đoạt giải thưởng Liêm chính quốc tế cùng 20 người của các quốc gia khác. Ngày 21.01.2008, bà Đức nhận giải thưởng tại Berlin, Cộng hòa liên bang Đức. Giải thưởng không có tiền, chỉ là tờ giấy ghi công lao và một kỷ niệm chương bằng thủy tinh, thật có ý nghĩa với tên của giải thưởng. Đúng như ý nghĩ của bà Đức và những người hăng hái chống tham nhũng, không ai nghĩ làm để nhận giải thưởng!

Sau này, khi Bảo tàng Hồ Chí Minh vận động góp những kỷ vật của Bác trong dân, bà Đức đã đem chiếc hộp đựng thuốc của Bác tặng lại Bảo tàng. Chiếc hộp Bác dùng đã mòn nhưng được bà gìn giữ bao nhiêu năm, nay được trưng bày để người Việt hiểu thêm về tình cảm của Bác đối với người phụ nữ.

Lịch sử đã chứng minh phụ nữ Việt Nam là phụ nữ Anh hùng. Trong bản Di chúc Bác viết: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Ðảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Ðó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ" (Di chúc). Những lời này vừa là tình cảm tràn đầy, vừa là huấn thị thiêng liêng của Bác.

Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình, có lần trả lời phỏng vấn đài BBC về phụ nữ Việt Nam, rằng: “Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng con đường giải phóng phụ nữ tại Việt Nam. Người đã thức tỉnh phụ nữ tham gia giải phóng dân tộc, từ đó giải phóng chính mình. Người luôn cảm thông với nỗi thống khổ của phụ nữ Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và bọn phong kiến”. Phát huy truyền thống, hiện nay, phụ nữ Việt Nam đã và đang phấn đấu, học tập và nâng cao bản lĩnh, đóng góp công sức vào sự nghiệp phát triển đất nước, thực hiện theo đúng những di nguyện của Bác Hồ kính yêu./.

Huyền Anh (Tổng hợp)

Bài viết khác: