LTS: Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện trọng đại nhất, oanh liệt nhất của dân tộc Việt Nam. Tất cả những thành tựu to lớn của Tổ quốc ta đã đạt được trong suốt 70 năm qua, nhất là trong gần 30 năm đổi mới, đều bắt nguồn từ những nền tảng đầu tiên là thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và việc thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Để góp phần ôn lại những trang sử hào hùng của dân tộc ta 70 năm qua, rút ra những bài học sâu sắc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay, Báo Quân đội nhân dân trân trọng giới thiệu loạt bài viết với chủ đề “Mạch nguồn của đổi mới và phát triển”.
Bài 1: Xây dựng Nhà nước của dân, do dân và vì dân
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đánh dấu bước ngoặt của lịch sử dân tộc Việt Nam. Nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, trở thành một nước độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa. Nhân dân từ nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam từ một Đảng hoạt động bí mật trở thành Đảng cầm quyền. Nhà nước của giai cấp bóc lột bị đánh đổ và thay vào đó là Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng. Cách mạng Tháng Tám không chỉ đập tan bộ máy thống trị của Pháp, Nhật, lật đổ chế độ phong kiến, mà còn giành được chính quyền về tay nhân dân lao động, thiết lập một Nhà nước kiểu mới lần đầu tiên xuất hiện trong lịch sử Việt Nam, đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nhà nước này ra đời là kết quả của việc lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Sau bao nhiêu năm bôn ba tìm đường cứu nước, trên cơ sở lý luận và thực tiễn, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã xác định kiểu nhà nước thực dân nửa phong kiến ở Việt Nam là phải đánh đổ. Thế nhưng cũng không thể quay lại kiểu nhà nước phong kiến vì đã lỗi thời. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng không lựa chọn kiểu nhà nước tư sản bởi Người hiểu rất rõ bản chất của Nhà nước ấy. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường cách mạng vô sản với kiểu nhà nước của giai cấp công nhân, nhưng không máy móc dập khuôn theo một mô hình nhà nước xã hội cụ thể nào. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc-Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập ra kiểu nhà nước trong đó bảo đảm có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính chất nhân dân, dân tộc.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8 diễn ra tháng 5 năm 1941 do Bác Hồ chủ trì, Đảng ta đã quyết định lập ra Mặt trận đoàn kết dân tộc rộng rãi, tên gọi là Mặt trận Việt Minh, chuẩn bị lực lượng vũ trang khởi nghĩa, khởi nghĩa từng phần, tiến lên Tổng khởi nghĩa. Nghị quyết Hội nghị đã xác định: “... sau lúc đánh đuổi được Pháp-Nhật sẽ thành lập một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc quyền riêng của một giai cấp nào mà là của chung của toàn dân tộc...”.
Để chuẩn bị cho nhà nước kiểu mới, khi chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam và Bác Hồ đã tổ chức Quốc dân Đại hội Tân Trào (tại Tuyên Quang) có vai trò như là một tiền Quốc hội hay một Quốc hội lâm thời. Với cơ cấu đại biểu đại diện cho khắp các vùng, miền, đại diện cho các giới, các đoàn thể ái quốc, các tầng lớp nhân dân nên quyết sách của Đại hội là quyết sách của nhân dân.
Từ những quyết sách do Quốc dân Đại hội đưa ra, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám đã thành công vang dội trong cả nước. Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Ủy ban dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Ủy ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào bầu ra, được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Sau Tổng tuyển cử tự do, bầu Quốc hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng bước xây dựng, kiện toàn bộ máy nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Điều đầu tiên (điều thứ 1) trong Hiến pháp do Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông qua ngày 9-11-1946 đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.
Hiến pháp năm 1946 cũng quy định vị trí và mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp trong hệ thống nhà nước. Bản Hiến pháp đầu tiên này không chỉ đặt cơ sở cho việc xây dựng, hoàn thiện bộ máy Nhà nước Việt Nam trong những năm đầu của nền cộng hòa dân chủ, mà còn là cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trong suốt thời kỳ từ 1946 đến 1959. Bản Hiến pháp năm 1946 vẫn có giá trị nghiên cứu, tham khảo trong cả quá trình xây dựng hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật ở nước ta từ sau năm 1959 và cả trong giai đoạn hiện nay.
70 năm qua, Nhà nước Việt Nam của dân, do dân và vì dân được khởi nguồn từ sau ngày Cách mạng Tháng Tám đã ghi những mốc son chói lọi trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nhà nước đó đã tổ chức nhân dân tiến hành hai cuộc kháng chiến cứu nước kéo dài suốt 30 năm, đã đưa đến hai chiến công vĩ đại của thế kỷ 20: Chiến thắng Ðiện Biên Phủ năm 1954 và Ðại thắng mùa Xuân năm 1975. Ðộc lập và thống nhất của dân tộc ta đã được thực hiện trọn vẹn.
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trải qua gần 30 năm qua, đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, trong đó có thành tựu về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên đứng trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Nhà nước của chúng ta cũng cần phải được hoàn thiện.
Cách đây gần 2 năm, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 2013. Bản Hiến pháp mới thể chế hóa sâu sắc và toàn diện các quan điểm của Đảng ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Ngay từ Lời nói đầu của Hiến pháp năm 2013 đã long trọng tuyên bố: Nhân dân Việt Nam là chủ thể “xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp này”; tiếp đến, bổ sung đầy đủ các hình thức nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước, không chỉ bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội và hội đồng nhân dân như quy định của các Hiến pháp trước đây, mà còn bằng các hình thức dân chủ trực tiếp (Điều 6), bằng biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân, trong đó có trưng cầu ý dân về Hiến pháp (Điều 29 và Điều 120). Đảng Cộng sản Việt Nam không những là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, mà còn phải “gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Hiến pháp năm 2013 không chỉ ghi nhận Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, bao gồm các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, mà còn bổ sung vai trò giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận đối với tổ chức và hoạt động của Nhà nước (Điều 9). Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, đóng vai trò “tham gia kiểm tra, thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước...” (Điều 10). Những tư duy chính trị-pháp lý mới đó xuất phát từ nhận thức sâu sắc rằng, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước; từ nguồn gốc, bản chất đến mục đích tồn tại cũng như sức mạnh của Nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân. Đây chính là nền tảng hiến định để bảo đảm cho tổ chức và hoạt động của Nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy mạnh mẽ hơn nữa chủ quyền của nhân dân trong đời sống nhà nước.
Xuất phát từ bản chất của Nhà nước ta “là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân” (khoản 1, Điều 2), Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một nguyên tắc mới về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta, đó là quyền lực nhà nước là thống nhất, không chỉ được phân công, phối hợp mà còn có sự kiểm soát trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp (khoản 3, Điều 2). Đây là một trong những nguyên tắc nền tảng về tổ chức quyền lực nhà nước ở nước ta. Bởi nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, nên nhân dân kiểm soát quyền lực nhà nước là một tất yếu, một đòi hỏi chính đáng. Đó là cơ sở để hình thành cơ chế nhân dân giám sát, kiểm soát quyền lực nhà nước mà mình đã trao cho mỗi quyền. Đây cũng là cơ sở hiến định để sửa đổi, bổ sung các luật về tổ chức bộ máy nhà nước mà Quốc hội vừa thông qua như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Tổ chức Tòa án Nhân dân, Luật Tổ chức Viện Kiểm sát Nhân dân,… nhằm phát huy vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước.
Kiểm soát quyền lực nhà nước là vấn đề khó khăn và phức tạp. Bởi kiểm soát quyền lực nhà nước, một mặt, là để phòng, chống sự tha hóa và lạm dụng quyền lực nhà nước, nhưng mặt khác, làm sao để không phải vì kiểm soát quyền lực nhà nước mà làm mất đi tính năng động, mềm dẻo cần phải có trong thực hiện chức năng của Nhà nước. Vì thế, vấn đề cơ bản của kiểm soát quyền lực nhà nước là làm cho bộ máy nhà nước vừa có khả năng kiểm soát được xã hội, lại vừa không kém phần quan trọng là buộc Nhà nước phải tự kiểm soát được chính mình. Đây cũng chính là cơ sở hiến định để chúng ta tiếp tục đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước ở nước ta hiện nay bằng việc hoàn thiện các thể chế về tổ chức bộ máy nhà nước.
70 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân, sự phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành viên trong mặt trận, Nhà nước ra đời từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân. Để Nhà nước của chúng ta sinh ra từ Cách mạng Tháng Tám làm tròn sứ mệnh của mình, mỗi người dân sống trong Nhà nước phải có trách nhiệm giám sát, bảo vệ và đóng góp công sức, trí tuệ xây dựng Nhà nước ngày càng vững mạnh./.
ĐỖ PHÚ THỌ
Bài 2: Hội nhập kinh tế quốc tế
Theo Báo Quân đội nhân dân
Thanh Huyền (st)