Về nước năm 1941, sau 30 năm xa xứ, Bác mới chính thức làm thơ, bắt đầu là hai bài về Pác Bó theo thể tứ tuyệt, tiếp đó là bài “Thượng sơn” (Lên núi), viết năm 1942 bằng chữ Hán. Nguồn thơ chữ Hán theo phong cách nhà Nho, thấm đẫm ý vị phương Đông ở Hồ Chí Minh có lẽ được bắt đầu bằng bài thơ này. Nhưng trong không khí tiền khởi nghĩa, với biết bao công việc trọng đại của đất nước mà Bác là lãnh tụ tối cao; với bao thư, lời hiệu triệu và văn kiện mà Bác phải trực tiếp soạn thảo, hoạt động thơ văn ở Bác chỉ có thể chiếm một tỷ lệ nhỏ và trong tỷ lệ đó ưu tiên số một đối với Bác phải là thơ văn tuyên truyền, cổ động cách mạng. Đó chính là lý do để chỉ trong một thời gian rất ngắn, Bác đã làm khoảng 30 bài trong hệ thơ “Bài ca Việt Minh”, với nội dung nhằm vào các tầng lớp quần chúng cơ bản để tuyên truyền ý thức cách mạng, như các bài “Hòn đá to”, “Ca sợi chỉ”, “Ca công nhân”, “Ca phụ nữ”, “Ca binh lính”... tất cả đều được đăng trên tờ Việt Nam độc lập, do Bác sáng lập và tổ chức thực hiện.
Vì vậy, sự ra đời “Ngục trung nhật ký” được Hồ Chí Minh viết trong khoảng thời gian từ tháng 8-1942 đến tháng 9-1943, nơi các nhà ngục ở Quảng Tây - Trung Quốc là một sự kiện rất đặc biệt và cũng có thể là bất ngờ đối với tác giả. Đặc biệt, bởi theo tôi hiểu, tác giả dường như chưa có một chuẩn bị gì cho sự kiện này. Nói theo GS Đặng Thai Mai, đây là tập thơ Hồ Chí Minh ngẫu nhiên mà hái lượm được. Có nghĩa là một tập thơ bỗng dưng mà có; bởi ít nhất có bốn khả năng khiến cho tập thơ không chào đời, đó là:
Thứ nhất, Bác không có công việc gì để sang Quảng Tây vào thời gian đó.
Thứ hai, Bác có việc sang Trung Quốc nhưng không bị bắt.
Thứ ba, Bác có bị bắt, nhưng thời gian giam giữ là ngắn, chứ không phải là 14 tháng; nghĩa là người tù có thể làm thơ, nhưng lượng bài là ít hơn, hoặc rất ít.
Thứ tư, “Ngục trung nhật ký” được viết xong nhưng Bác đã không giữ được bản thảo; có biết bao lý do để bản thảo không trở về với tác giả, sau ngót mười năm kháng chiến đã trở về Thủ đô. Và như vậy cũng sẽ không có sự hiện diện của bản thảo trong Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, rồi chuyển sang Viện Văn học (thành lập năm 1959), được dịch và in ấn rất khẩn trương.
Một điều tôi quan tâm là Hồ Chí Minh đã chọn chữ Hán và thể thơ Đường luật bảy chữ - bốn và tám câu, sau 23 năm viết bằng chữ Pháp và chữ Việt. Vì sao có một chọn lựa như thế? Câu trả lời nên chăng là, việc làm thơ, việc bộc lộ các ý tưởng và cảm xúc của mình, đối với Bác, chỉ chữ Hán mới là phương thức chuyên chở và thể hiện thích hợp nhất. Bởi nguồn gốc xuất thân, môi trường đào luyện nhân cách và học vấn của Bác là nằm trong truyền thống Nho học có lịch sử hàng ngàn năm cho kẻ sĩ ở xứ ta, mà gia đình Bác là thuộc dòng chân Nho. Ở tuổi ngoài 50, dẫu có 30 năm xa xứ, nói và viết bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài, khi trở về với riêng mình, thì chữ Hán vẫn là phương tiện cô đọng và hàm súc nhất cho việc phô diễn và tự sự. Vậy thì, sau khai mở là bài “Thượng sơn”, bây giờ là lúc mạch nguồn ấy được khơi dậy, để thành một dòng chảy cho con người thơ trong trạng thái tự nhiên có dịp soi vào, và nhận diện.
Nhà thơ, Nhà giáo Ưu tú Hoàng An (thứ hai từ trái sang) - người dịch “Nhật ký trong tù” tiếng Tày - Nùng, trao sách tặng đồng chí Đinh Thế Huynh, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương. Ảnh chụp tại buổi Tọa đàm khoa học 70 năm tác phẩm “Nhật ký trong tù” ngày 6-9-2013 tại Hà Nội. Ảnh: HOÀNG HOÀNG.
“Ngục trung nhật ký”, khác với tất cả các tác phẩm về trước, đó là tập thơ Bác chỉ viết cho riêng mình. Ở đây là một nhu cầu ghi chép thực tại và các trạng huống của nội tâm, mà người đọc không có ai khác ngoài bản thân mình. Để hiểu bốn câu trong bài “Khai quyển”:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do
(Nam Trân dịch)
Viết về mình trong tính chất một nhật ký-thơ ghi chuyện hằng ngày và viết cho mình, gần như không nhằm vào bất cứ một đối tượng nào khác ngoài mình, “Ngục trung nhật ký" có tất cả ưu thế để trở thành một chân dung tự họa, trung thực nhất và sâu sắc nhất của Hồ Chí Minh. Một tự họa không cần đến bất cứ sự tô điểm nào, hoặc bất cứ sự che giấu nào; để lần lượt, từ bài này qua bài khác, Hồ Chí Minh hiện lên trước mắt ta trong rất nhiều tư thế: Nhà cách mạng mất tự do, với khát vọng lớn nhất là được tự do; một tù nhân với muôn vàn nỗi khổ; một bạn hữu với bao cảm thông với những người thấp bé; một hồn thơ gắn bó với thiên nhiên; một con người không trốn tránh những phút yếu lòng nhưng luôn luôn chiến thắng ngoại cảnh... Như vậy là có nhiều con người trong một con người qua cách tự biểu hiện ở các bài thơ. Nhưng nếu thu lại cho thật gọn thì chỉ còn hai con người-đó là một chiến sĩ cách mạng và một thi nhân, với chất thép và chất thơ-như được đúc kết trong bài “Khán “Thiên gia thi” hữu cảm”:
Thơ xưa thường chọn thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong
(Nam Trân dịch)
Từ sự thống nhất như trên nên dẫu được viết trong 14 tháng, “Ngục trung nhật ký” vẫn là một chỉnh thể nghệ thuật, bởi con người cách mạng Hồ Chí Minh ở đây hơn bất cứ tác phẩm nào khác, đã tìm được sự hiện thân, sự hóa thân trong một nhân vật trữ tình, dồi dào phẩm chất nghệ sĩ. Nhà cách mạng trong hoàn cảnh không còn đất cho sự hoạt động đã chuyển sang hoạt động của nhân vật trữ tình. Chính trong nhân vật trữ tình không chỉ phẩm chất cách mạng mà toàn bộ phẩm chất người ở trạng thái hồn nhiên, trọn vẹn của nó đã làm tôn lên và hài hòa với phẩm chất cách mạng.
Nay ở trong thơ nên có thép. Quả chất thép là cần, vì sự định hướng cao cả và triệt để cho hoạt động của con người nhằm vào cái tốt, cái thiện. Nhưng đây lại là chất thép trong thơ; và như vậy, chất thơ lại cần cho sự phát triển và hoàn thiện con người, như một sản phẩm của tự nhiên và xã hội nhằm vào cái đẹp. Có cái trước để có cái sau. Rất cần nhấn mạnh tầm quan trọng của cái trước, nhưng cái sau mới là hệ quả, là mục tiêu mà con người cần theo đuổi. Những ai nói đến Hồ Chí Minh như là người theo đuổi đến cùng mục tiêu cách mạng, nếu có dịp dừng lại, đi sâu vào phẩm chất nghệ sĩ này sẽ thấy, đó là con người luôn tạo được thế hài hòa, luôn tìm được sự bù đắp và thư giãn cho mình trong những hoàn cảnh gieo neo, khốc liệt. Và đó chính là biểu hiện, là bản lĩnh của sự kết hợp giữa người chiến sĩ và người nghệ sĩ.
Trở lại “Nhật kỳ trong tù” với chất thơ của tác phẩm và phẩm chất thi sĩ ở tác giả. Xưa nay, có văn là có người (cố nhiên phải là kiểu văn chương chân chính). Nhưng có nhiều loại văn. Và trong văn, con người hiện ra rất khác nhau. Có văn khẩu khí. Có văn tự trào, tự biếm. Có văn phô trương. Có văn tâm sự. Có văn hướng về người. Có văn thu về mình… Còn Hồ Chí Minh, dường như Người không có ý định làm bất cứ loại văn gì trong các dạng kể trên. Nhưng phải chăng, với sự “vô tâm” đó mà văn chương đích thực đã đến, và trong "khí hậu" đó mà con người thi nhân đã xuất hiện. Con người vừa là chủ thể, vừa là đối tượng, trên hành trình xuyên qua cái đẹp mà hướng tới cái chân, cái thiện.
Con người đó, cho đến hôm nay, trong sự soát xét lại các giá trị của thời gian, vẫn nguyên vẹn sự trọn vẹn như trong câu thơ của Tố Hữu:
Bảy mươi chín tuổi xuân trong sáng
Vào cuộc trường sinh nhẹ cánh bay
("Theo chân Bác")
Đâu dễ có một con người trong văn chương, nếu chưa được hoặc chưa phải là văn chương đích thực. Càng đâu dễ có một con người trọn vẹn. Không phải cái trọn vẹn của những siêu nhân, mà là cái trọn vẹn của con người trần thế, để cho ta soi vào mà vững thêm niềm tin trước một cuộc sống luôn luôn thử thách không chỉ niềm tin, mà cả chất người, phẩm giá làm người.
Với “Nhật ký trong tù”, chúng ta may mắn có được bức chân dung tự họa của con người Hồ Chí Minh. Rồi với cuộc đời Hồ Chí Minh, chúng ta càng hiểu thêm giá trị “Nhật ký trong tù”. Không có độ chênh giữa tác phẩm và tác giả. Hơn và khác với bất cứ ai khác, có thể có độ chênh ít nhiều, thậm chí có khi khác biệt giữa văn và người, với Hồ Chí Minh, con người thực là bảo đảm bằng vàng cho thơ. Dẫu vậy, thơ chỉ mới nói được một phần nhỏ về người. Con người Hồ Chí Minh lớn hơn bất kỳ sự thể hiện nào trong thơ. Nhưng thơ, để hiểu con người, và để hiểu rộng ra nhiều điều khác nữa; và thơ-trong những lay động sâu xa về tình cảm, khát vọng hướng tới cái đẹp, cái cao thượng… như trong “Nhật ký trong tù” lại là một sản phẩm quý giá, không gì thay thế được, càng không gì so sánh được.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, bất cứ ở phương diện nào cũng là nói đến một tầm vóc lớn, một chân dung lớn, với khát vọng cao đẹp nhất là độc lập cho dân tộc và tự do cho con người: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Hai khát vọng được biểu trưng một cách đột xuất trong “Ngục trung nhật ký” và “Tuyên ngôn Độc lập”, cả hai gắn nối với nhau để cùng xuất hiện trong một thời điểm trọng đại của lịch sử dân tộc Việt. Cả hai tác phẩm đã được Nhà nước công nhận, tôn vinh là Bảo vật quốc gia, để dân tộc Việt, nhân dân Việt lưu giữ cho muôn đời con cháu./.
GS PHONG LÊ - Nguyên Viện trưởng Viện Văn học
Nguồn: Báo Quân đội nhân dân
Nguyễn Văn Ngọc (st)