Trong những ngày đầu tiên tạo dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm nhìn chiến lược của mình, đặc biệt trong cái nhìn vĩ mô về cục diện chính trị khu vực và thế giới.
Sau nhiều năm bôn ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn nhận tổng thể về sức mạnh chính trị toàn cầu ngay trong bối cảnh thế giới chưa dứt ra khỏi cuộc chiến tranh lần thứ hai. Và Người đã khai thác tất cả yếu tố có được trong công tác đối ngoại cho vận mệnh đất nước, nhằm chuẩn bị cho ngày lập quốc thời hiện đại. Tất cả đều hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và quyền lợi quốc gia là trên hết…
Nắm chắc cơ hội vàng
Khi Hiến chương Đại Tây Dương được công bố Hè năm 1941, Bác Hồ đã nhìn thấy vận hội cho công cuộc tranh đấu giành độc lập từ thực dân Pháp. Hiến chương ra đời với sự đồng thuận của Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt đã nêu rõ sự tôn trọng chủ quyền quốc gia, cũng như sự tái lập nền độc lập đối với các quốc gia bị tước chủ quyền.
Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên mà Bác Hồ nghĩ đến như một sự trợ giúp cần thiết thời điểm đó. Và cơ hội đầu tiên đã xuất hiện vào năm 1944, khi một máy bay Mỹ bị tai nạn trên bầu trời Cao Bằng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh trên bìa tuần báo Time (số 22-11-1954) sau Chiến thắng Điện Biên Phủ
Viên Trung úy phi công Mỹ William Shaw được Việt Minh cứu sống và lập tức đưa đi khỏi địa điểm bị nạn. Ngay hôm sau, quân Pháp vây kín khu vực, tháo máy bay và tìm viên phi công. Tiếp theo Pháp là Nhật. Shaw đã được đưa đến thôn Lũng Bó, vào lúc Bác Hồ chuẩn bị đi Côn Minh (Trung Quốc).
Chủ tịch Hồ Chí Minh lệnh cho Tiểu đội du kích của Lê Quảng Ba bảo vệ Shaw và sau đó yêu cầu đưa Shaw đến gặp. Trước mặt Shaw là một Ông Cụ nói tiếng Anh sõi như tiếng mẹ đẻ. Ông Cụ phân tích tình hình chính trị, cũng như nhiều vấn đề quan trọng khác.
Cuối buổi nói chuyện, Ông Cụ - Chủ tịch Hồ Chí Minh - hứa trả Shaw cho quân Đồng minh tại Côn Minh. Trước khi chia tay, Bác Hồ còn dịch “Cương lĩnh Mặt trận Việt Minh” sang tiếng Anh và yêu cầu Shaw giao lại cho thượng cấp.
Bác Hồ và biệt đội Con Nai
Cuối năm 1944, Bác Hồ sang Côn Minh. Shaw được đi theo để trở về Bộ Tư lệnh Không quân Mỹ tại đó. Khi Đoàn đến Thiên Bảo, Huyện trưởng Tĩnh Tây báo cho Trần Bảo Phương (tướng của Tưởng Giới Thạch) và Bác Hồ được yêu cầu giao Shaw cho họ. Đây là một âm mưu “cướp công” - nói theo tác giả Mai Văn Bộ trong quyển “Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh”.
Tại Côn Minh thời điểm trên, ngoài tổng hành dinh Không đoàn 14 Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của Tướng Claire Chennault, còn có Tổng cục Chiến lược vụ (OSS - tiền thân Cơ quan Tình báo Mỹ CIA) và Cơ quan Cứu trợ không quân (AGAS). Khi đến Côn Minh, Bác Hồ liên lạc ngay với AGAS.
Khi nghe thuộc cấp kể về việc Việt Minh cứu Shaw, Chỉ huy AGAS Charles Fenn lập tức đồng ý gặp Bác Hồ. Trong cuộc tiếp xúc ngày 17-3-1945, Charles Fenn đã bị chinh phục bởi sự uyên bác và thông thái của Hồ Chí Minh. Hai người gặp nhau lần thứ hai vào ngày 20-3-1945 và sắp xếp cuộc tiếp xúc với Claire Chennault.
Cần nhấn mạnh rằng, trong cục diện chính trị những năm 40 của thế kỷ trước, khi Đông Dương trở thành một trong những điểm nóng nhất thế giới, Mỹ bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Đông Dương. Tướng William Donovan - Chỉ huy trưởng OSS - đã bí mật cử hai viên chức tình báo sang khu vực: Đại tá John Whitaker và Trung tá Archimedes Patti nhằm nghiên cứu tình hình thực tế.
Đến Côn Minh ngày 14-4-1945, Archimedes Patti nhanh chóng nhận ra sự phức tạp của bàn cờ Đông Dương, khi quân Nhật có khả năng tấn công lên Tây Nam Trung Quốc, khi Pháp thất bại hết trận này đến trận khác, khi quân Tưởng tiếp tục là thế cờ khó giải trong cục diện chính trị Trung Quốc…
Archimedes Patti cũng được nghe về sự lớn mạnh của Việt Minh. Sau khi nghe báo cáo về việc Việt Minh cứu Shaw cũng như các cuộc tiếp xúc của Bác Hồ với Claire Chennault và Charles Fenn, Patti quyết định trực tiếp gặp Bác Hồ. Chiều 27-4-1945, Patti đến quán trà tại ngoại ô Tĩnh Tây, chờ Vương Minh Phương (người móc nối liên lạc giữa Việt Minh và tình báo Mỹ).
Chập choạng tối, ông Vương đến, dẫn Patti vào ngôi làng nhỏ cách Tĩnh Tây khoảng 10km. Trong cuộc gặp, Bác Hồ đi thẳng vào vấn đề: “Việc hợp tác với Đồng minh chống Nhật trên chiến trường Đông Dương mà chúng tôi đã làm, trên thực tế, chứng tỏ rằng chúng tôi sẵn sàng hợp tác với Chính phủ Mỹ”.
Patti cũng kể rằng, tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh thật ra không xa lạ gì với chính giới Mỹ, từng được nhắc đến trong các tài liệu của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ như một lãnh tụ Việt Nam với tinh thần kiên định.
Về yêu cầu trợ giúp, Bác Hồ nói: “Nếu Mỹ sắp xếp được với Đồng minh cung cấp những thiết bị liên lạc và một số vũ khí nhẹ, đủ để trang bị cho một đơn vị nhỏ và phái người huấn luyện việc sử dụng các vũ khí đó, chắc rằng tình hình sẽ thay đổi”.
Việc Bác Hồ không nhắc đến vấn đề viện trợ tài chính khiến Patti tỏ ra ngạc nhiên và nể phục. Một trong những điểm mấu chốt cuối cùng trong đợt liên lạc này là sự thỏa thuận cho tình báo Đồng minh vào căn cứ Việt Minh. Ngày 15-4-1945, nhóm tình báo Đồng minh được đưa vào căn cứ Việt Minh.
Bác Hồ dặn ông Cao Hồng Lĩnh và Quốc Văn: “Đây là đám Đồng minh nói là chống phát xít, ngoài việc nắm tình hình Nhật, đồng thời cũng nắm tình hình của ta. Đây là nhóm tình báo chuyên nghiệp, ở Đông Dương đã lâu. Đã cho chúng vào rồi thì trong quan hệ hằng ngày nên xử trí như thế nào cho được việc của họ và cũng có lợi cho ta.
Ba phương châm các chú phải nhớ để giải quyết mọi công việc: Thứ nhất là, làm gì có lợi cho hợp tác với Đồng minh, không có hại cho công việc của ta. Thứ hai là, không từ chối một việc gì có ích chung, nhưng cũng không hứa hẹn một điều gì không làm được. Thứ ba là, nên khôn khéo đối xử, tìm hiểu hoàn cảnh cụ thể từng người, linh hoạt giải quyết mọi công việc để tranh thủ họ”.
Tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế
Đầu tháng 5-1945, Bác Hồ quyết định chuyển căn cứ về xuôi. Trước khi đi, Bác Hồ gửi thư và hai tài liệu khác cho Patti, nhờ đại diện Mỹ chuyển lên Liên Hiệp Quốc, kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ cuộc chiến giành độc lập dân tộc của nhân dân Việt Nam. Cuối tháng 5-1945, Bác Hồ gửi tiếp thư cho Patti, thông báo việc Nhật mở rộng công trình công sự tại Cao Bằng và nhắc Patti chuyển hai văn kiện đến San Francisco.
Vấn đề hợp tác tình báo đã được cụ thể hóa bằng việc toán tình báo Con Nai do Thiếu tá tình báo Mỹ Allison Thomas nhảy dù xuống Tân Trào giữa tháng 7-1945. Tiếp xúc với Thomas, Bác Hồ một lần nữa khẳng định Mặt trận Việt Minh là tập hợp các đảng chính trị được tổ chức với mục đích duy nhất là đấu tranh cho tự do dân tộc.
Ngày 25-7-1945, Bác Hồ yêu cầu Thomas nhờ trung gian Mỹ báo cho Pháp biết mình có thể nói chuyện với đại diện Pháp tại Côn Minh hoặc Bắc Kỳ. Yêu cầu này được Thomas chuyển cho Bộ Chỉ huy AGAS ở Côn Minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đồng thời gửi Chính phủ Pháp bản đề nghị 5 điểm:
1. Thực hiện phổ thông đầu phiếu để bầu nghị viện quản lý đất nước, do một toàn quyền Pháp làm chủ tịch cho đến khi Việt Nam được hoàn toàn độc lập. Toàn quyền sẽ lập nội các hoặc đoàn cố vấn được nghị viện chấp nhận.Quyền hạn chính xác của các quan chức nói trên sẽ được thảo luận sau.
2. Độc lập phải được ban bố cho đất nước trong ít nhất 5 năm, nhưng không được quá 10 năm.
3. Các nguồn lợi thiên nhiên của đất nước phải được trả lại cho nhân dân với sự đền bù thích đáng.
4. Mọi quyền tự do do Liên hiệp quốc đề ra phải được bảo đảm thi hành cho người Đông Dương.
5. Cấm bán thuốc phiện.
Đầu tháng 8-1945, Bác Hồ chọn 100 du kích để nhờ biệt đội Con Nai huấn luyện. Ngày 6-8-1945, qua điện đài của Thomas, Bác Hồ biết được thông tin Mỹ thả bom nguyên tử xuống Hiroshima (Nhật). Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp tốc hội ý Ban Thường vụ Trung ương, quyết định tổ chức tổng khởi nghĩa. Phần mình, người Mỹ bắt đầu thay đổi chiến lược cho cục diện Đông Dương. Chiều 25-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh về đến Hà Nội.
Trước đó 3 ngày, phái bộ Mỹ do Patti dẫn đầu đã có mặt tại Hà Nội. Lúc này, Mỹ đã tỏ rõ sự thay đổi trong chính sách. Trong “Vietnam - a history”, tác giả Stanley Karnow thuật: Tháng 7-1945, trước khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật, các nhà lãnh đạo Đồng minh đã họp tại Potsdam (ngoại ô Berlin, Đức).
Họ lập kế hoạch giải giáp quân Nhật tại Việt Nam, đồng thời ủng hộ Pháp tại mặt trận Đông Dương. Chính sách thay đổi này một phần là do sự thay đổi quyền lực tại Mỹ, khi Tổng thống Roosevelt được thay bằng Harry Truman. Và Patti chỉ làm những gì mà Washington chỉ đạo.
Tối 30-9-1945, trong lần gặp cuối cùng với Patti, Bác Hồ khẳng định: “Nếu người Pháp cố tình quay trở lại Việt Nam, như là những tên thực dân đế quốc bóc lột, tàn sát và giết hại đồng bào tôi, thì tôi dám khẳng định với họ và thế giới rằng đất nước Việt Nam có thể biến thành tro bụi, nhưng chính sách của Chính phủ tôi sẽ là một chính sách tiêu thổ kháng chiến đến cùng!”.
Vũ Anh
Nguồn: Năng lượng Mới
Kim Chi (st)