Thứ bảy, 21/12/2024

Thời kỳ đổi mới đánh dấu bước phát triển mạnh mẽ trong tư duy lý luận của Đảng trên hàng loạt vấn đề về thời đại và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Việt Nam, trong đó có nhận thức lý luận về quyền con người. Đó chính là một trong những yếu tố quyết định góp phần đưa lại những thành tựu quan trọng trên nhiều mặt của công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, tạo tiền đề để Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, từng bước hội nhập sâu rộng vào đời sống quốc tế. Có thể khái quát những thành tựu lý luận về quyền con người trên những mặt cơ bản sau.

quyen con nguoi
Khám bệnh cho trẻ em và người dân xã Na Cô Sa, huyện Mường Nhé, Điện Biên, ảnh: Internet

1. Khẳng định rõ, bảo đảm quyền con người là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, là mục tiêu của Nhà nước ta và động lực của sự phát triển đất nước

Cũng như ở hầu hết các nước XHCN thời kỳ trước đổi mới và mở cửa, do nhiều nguyên nhân, ở Việt Nam vấn đề quyền con người chưa được nhận thức đầy đủ về mặt lý luận. Quan điểm phổ biến cho rằng, cũng như nhà nước pháp quyền, kinh tế thị trường... nhân quyền là sản phẩm riêng của giai cấp tư sản. Trong bối cảnh các nước phương Tây thúc đẩy việc áp đặt giá trị thông qua dân chủ, nhân quyền, nhằm chống phá các nước đi theo con đường XHCN, quan điểm trên đã khiến nhân quyền càng trở thành vấn đề nhạy cảm, khó “chia sẻ”. Tình trạng nhận thức phiến diện nói trên đã làm hạn chế hoạt động nghiên cứu lý luận, cũng như việc thực hiện quyền con người ở các nước XHCN. Việc bỏ ngỏ “trận địa” quan trọng này đã tạo ra “khoảng trống” để các thế lực thù địch có cơ hội thỏa sức tuyên truyền quan điểm nhân quyền tư sản và xuyên tạc thực tiễn bảo đảm quyền con người tại các nước XHCN.

Bối cảnh quốc tế mới, đặc biệt là xuất phát từ yêu cầu phát triển nội tại của mỗi nước, các đảng cầm quyền ở các nước XHCN đều có nhu cầu nghiên cứu đầy đủ hơn vấn đề quyền con người, làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình. Đây là yếu tố thúc đẩy sự chuyển biến nhận thức lý luận về quyền con người của các đảng cầm quyền tại các nước XHCN, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam.

Xuất phát từ yêu cầu đổi mới tư duy kinh tế, tháo gỡ những trở ngại, nhằm tạo điều kiện cho sản xuất “bung ra”, Đảng đã thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần đan xen trong thời kỳ quá độ; do đó, ngày càng quan tâm hơn đến lợi ích của người lao động - cũng chính là sự chú ý đến lợi ích cá nhân, đến quyền của mỗi con người trên lĩnh vực kinh tế. Từ lĩnh vực kinh tế, những nhu cầu về quyền khác cũng được đặt ra và từng bước được đáp ứng. Chẳng hạn, các quyền: tự do lựa chọn công việc, tự do kinh doanh, sở hữu, đi lại, cư trú, thông tin, cũng như các quyền tự do cá nhân khác, được Nhà nước thừa nhận và bảo đảm trên thực tế. Đó cũng chính là những nội hàm của quyền con người mà Nhà nước Việt Nam cần thực hiện với tư cách là thành viên của các điều ước quốc tế về quyền con người(1). Từ giữa những năm 1980, Việt Nam bắt đầu thực hiện các báo cáo quốc gia đối với các cơ chế nhân quyền Liên hợp quốc. Các báo cáo này đòi hỏi trách nhiệm của Nhà nước không chỉ làm rõ việc thực hiện những quyền con người được quy định trong mỗi công ước, mà còn ở việc tuyên truyền, giáo dục và thúc đẩy thực hiện quyền con người trên thực tế.

Như vậy, chính thực tiễn đổi mới, hội nhập và phát triển đã đặt ra những yêu cầu mới trong nhận thức lý luận về quyền con người, nhằm định hướng cho các hoạt động đối nội và đối ngoại của đất nước. Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000 được Đại hội VII của Đảng (1991) thông qua đã khẳng định: “Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển là vì con người, do con người. Chiến lược kinh tế - xã hội, đặt con người vào vị trí trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân... Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau”(2). Đảng cũng nhấn mạnh, nhiệm vụ “Dân chủ hóa đời sống xã hội, quyền công dân, quyền con ngườivà tự do cá nhânđược bảo đảm bằng pháp luật, được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật”(3). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Cương lĩnh 1991) chủ trương: “Nhà nước định ra các đạo luật nhằm xác định các quyền công dân và quyền con người, quyền đi đôi với nghĩa vụ và trách nhiệm”(4).

Từ nhận định, cơ chế quản lý kinh tế mới đã bước đầu hình thành nhưng chưa đồng bộ, còn thiếu nhiều luật lệ, chính sách bảo đảm sản xuất, kinh doanh đúng hướng, Đại hội VIII (1996) nhấn mạnh: “Ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế, về các quyền công dân và các luật điều chỉnh công cuộc cải cách bộ máy nhà nước, các luật điều chỉnh các hoạt động văn hóa, thông tin (...) nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, ban hành các văn bản luật với những quy định cụ thể, dễ hiểu, dễ thực hiện. Giảm dần các luật, pháp lệnh chỉ dừng lại ở những nguyên tắc chung, muốn thực hiện được phải có nhiều văn bản hướng dẫn thi hành”(5).

Cùng với việc bảo đảm quyền con người trên lĩnh vực kinh tế, Cương lĩnh năm 1991 nhấn mạnh việc “Kế thừa và phát huy những truyền thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân chính và phẩm giá con người”(6). Nghị quyết 01-NQ/TW (1992) của Bộ Chính trị “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay” tái khẳng định quan điểm này; đồng thời mở ra bước phát triển mới cho hoạt động nghiên cứu lý luận, khi nhấn mạnh yêu cầu có tính nguyên tắc trong tiếp nhận những giá trị mới nhằm làm giàu trí tuệ của Đảng: “Đối với những học thuyết khác - ngoài chủ nghĩa Mác - Lênin về xã hội, cần được nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều cũng như chống chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc”(7). Đây là điểm tựa quan trọng cho hoạt động nghiên cứu lý luận về quyền con người.

Kế thừa những thành quả nghiên cứu lý luận và từ yêu cầu mới trong quá trình phát triển đất nước, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị 12-CT/TW (năm 1992) về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”. Đây là văn kiện chuyên đề đầu tiên của Đảng về chủ đề quyền con người. Chỉ thị đã nêu những nhận thức cơ bản của Đảng về vấn đề quyền con người và định hướng cho công tác bảo đảm và đấu tranh trên lĩnh vực nhân quyền trong tình hình mới.

Nhận thức lý luận đã được cụ thể hóa thành các quy định pháp luật. Khái niệm quyền con người lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1992: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”(8). Việc hiến định các quyền con người là cơ sở quan trọng cho việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quyền con người ở Việt Nam.

Các đại hội Đảng đã xác định nhiều nhiệm vụ quan trọng liên quan đến quyền con người, như việc cần sớm xây dựng các luật nhằm điều chỉnh các lĩnh vực lao động, việc làm, bảo trợ xã hội, môi trường... Đại hội IX (2001) khẳng định: “Chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người; tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia”(9)... Điều này cho thấy, Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng trách nhiệm quốc gia trong việc thực thi các cam kết quốc tế về quyền con người, cũng như thái độ tích cực hợp tác quốc tế trên lĩnh vực này.

Đại hội X của Đảng (2006) vừa tiếp tục phát triển những nhận thức nói trên, vừa đưa nhân quyền vào tất cả các nội dung văn kiện, như các quy định: mọi người đều bình đẳng trước pháp luật; giải quyết kịp thời khiếu nại của công dân, thực hiện bồi thường do phán quyết oan, sai của tòa án; khoan dung với người lầm lỗi, thành tâm hối cải; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; thực hiện chính sách đầu tư phát triển và chính sách xã hội cho vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và đồng bào nghèo...

Trước những biến đổi nhanh chóng của tình hình thế giới và trong nước, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và các văn kiện Đại hội XI của Đảng chủ trương: “Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương (...). Thực hiện tốt công việc tại các tổ chức quốc tế, (...) sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền”(10); “Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết”(11); “Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”(12). Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng trên lĩnh vực nhân quyền. Các quan điểm nêu trên hoàn toàn phù hợp với nhận thức chung của cộng đồng quốc tế về trách nhiệm quốc gia. Tuy nhiên, Đảng ta vẫn kiên định quan điểm, quyền con người trước hết và chủ yếu thuộc chủ quyền quốc gia, gắn bó hữu cơ với chủ quyền và độc lập của dân tộc. Mọi sự giúp đỡ quốc tế, kể cả các cơ chế nhân quyền quốc tế, chỉ có tác dụng hỗ trợ nhằm hoàn thiện hơn các cơ chế đang vận hành tại mỗi quốc gia; mọi sự can thiệp đều trái với các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại. Đây cũng chính là đóng góp lý luận của Việt Nam trên lĩnh vực còn nhiều nhận thức khác biệt này.

Cùng với văn kiện các đại hội, nhiều chỉ thị, nghị quyết của Đảng đã làm rõ hơn nhận thức về những lĩnh vực và nội dung cụ thể của quyền con người. Điểm nổi bật là đã đặt con người ở trung tâm của mọi chiến lược phát triển, coi trọng lợi ích cá nhân; khắc phục được những nhận thức giản đơn, phiến diện về vấn đề quyền con người; đặt hoạt động nhân quyền ở Việt Nam trong xu thế chung, tích cực của thế giới.

Hiến pháp năm 2013 là kết quả của quá trình đổi mới tư duy lập hiến, trong đó có đổi mới tư duy lý luận về quyền con người. Các nguyên tắc và quy định về quyền con người trong Hiến pháp không ngừng mở rộng về chủ thể và nội hàm, phù hợp với các chuẩn mực nhân quyền quốc tế. Điểm mới là đã xác định rõ hơn trách nhiệm của Nhà nước trong việc thực hiện quyền con người; khẳng định nguyên tắc “phân công, phối hợp” và “kiểm soát” quyền lực nhà nước cũng như nhiều nguyên tắc cơ bản khác của Nhà nước pháp quyền XHCN. Cùng với đổi mới hoạt động lập pháp, trong những năm qua, Nhà nước đã triển khai nhiều hoạt động quan trọng như cải cách tư pháp, cải cách hành chính; đồng thời, thông qua nhiều chương trình, mục tiêu quốc gia nhằm giải quyết những vấn đề cấp bách của đất nước.

Những nỗ lực của Nhà nước và nhân dân đã thu được những kết quả và kinh nghiệm phong phú trong việc bảo đảm quyền con người, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Đó là những kết quả thuyết phục về xóa đói nghèo, bình đẳng giới, phổ cập giáo dục, bảo đảm quyền cho các nhóm xã hội “dễ bị tổn thương”...Việt Nam cũng là một trong các quốc gia sớm hoàn thành các Mục tiêu Thiên niên kỷ. Trong điều kiện kinh tế chưa thực sự phát triển, nhưng nhận thức và cách thức thực thi đúng đắn quyền con người đã tạo ra bước phát triển vượt bậc của đất nước.

Trong khi nhận rõ trách nhiệm quốc gia trong việc thực hiện quyền con người, với tư cách thành viên của các điều ước nhân quyền quốc tế, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Đối với chúng ta, vấn đề quyền con người được đặt ra xuất phát từ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, từ bản chất của chế độ ta và bao quát rộng rãi nhiều lĩnh vực từ chính trị, tư tưởng, văn hóa đến kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, pháp chế...”(13).

Luận điểm nói trên được xem như bước đột phá trong hoạt động lý luận trên lĩnh vực quyền con người. Thời kỳ trước đổi mới, vấn đề quyền con người ở Việt Nam thường được gắn và đặt trong tiến trình giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người. Mặc dù nội hàm quyền con người luôn được đề cập trong các khẩu hiệu đấu tranh thời kỳ trước khi giành độc lập, cũng như được tích cực triển khai trong thực tiễn hoạt động của Nhà nước Việt Nam ngay sau khi lập nước, nhưng việc khẳng định quyền con người thuộc bản chất của chế độ, là mục tiêu của Nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng. Điều này không chỉ tăng thêm trách nhiệm của Nhà nước trên mọi phương diện, mà còn xác lập vai trò, vị trí quyền con người trong lý luận về CNXH.

2. Hình thành được những quan điểm cơ bản về quyền con người, làm cơ sở cho việc xem xét, thực hiện quyền con người ở Việt Nam

Trong bối cảnh thế giới còn nhiều nhận thức khác biệt về quyền con người, việc xác định quan điểm, cách tiếp cận riêng đúng đắn về lĩnh vực này là rất cần thiết, nhằm định hướng cho việc xem xét, giải quyết những vấn đề nhân quyền cụ thể.

Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, Chỉ thị 12/CT-TW của Đảng bước đầu xác định một số quan điểm cơ bản về quyền con người; đó là: quyền con người là thành quả đấu tranh của nhân dân lao động và các dân tộc bị áp bức trên thế giới, cũng là thành quả đấu tranh của loài người làm chủ tự nhiên, nhờ đó trở thành giá trị chung của nhân loại. Trong xã hội có phân chia giai cấp, quyền con người mang tính giai cấp sâu sắc. Giải phóng con người gắn liền với giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội; chỉ có dưới tiền đề độc lập dân tộc và CNXH thì quyền con người mới có điều kiện được bảo đảm rộng rãi, đầy đủ, trọn vẹn nhất. Dưới chế độ XHCN, lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích toàn xã hội kết hợp hài hòa; lợi ích của cá nhân được coi trọng vì đó là mục tiêu, là động lực của sự phát triển xã hội, song cần chú trọng bảo đảm lợi ích của tập thể và của cả cộng đồng xã hội. Quyền tự do, dân chủ của mỗi cá nhân không tách rời nghĩa vụ và trách nhiệm công dân; dân chủ phải đi đôi với kỷ cương, pháp luật. Quyền con người gắn với quyền dân tộc cơ bản và thuộc phạm vi chủ quyền quốc gia. Quyền con người luôn luôn gắn liền với lịch sử, truyền thống và phụ thuộc vào trình độ kinh tế, văn hóa của đất nước(14).

Nhân quyền là thành quả chung của nhân loại, do đó trở thành giá trị phổ biến mà mọi quốc gia đều có quyền thụ hưởng, bảo vệ và thúc đẩy. Tuy nhiên, do các quốc gia phát triển không đồng đều, đặc biệt là các quốc gia vừa trải qua cuộc đấu tranh lật đổ ách thống trị thực dân, phong kiến, vì thế nhân quyền cũng mang tính đặc thù và không thể tách rời các điều kiện kinh tế, xã hội và văn hóa của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Bởi vậy, mỗi quốc gia, dân tộc có quyền lựa chọn các ưu tiên trong phát triển, nhằm cải thiện tình trạng kinh tế, xã hội, đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền của con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện, bền vững.

Trong bối cảnh các thế lực phản động, thù địch lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền để can thiệp công việc nội bộ, chống phá đất nước ta, Đảng và Nhà nước ta chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh trên vấn đề nhân quyền là cuộc đấu tranh mang tính chất giai cấp sâu sắc sẽ diễn ra liên tục, lâu dài và quyết liệt”(15). Do đó, công tác bảo vệ và đấu tranh về nhân quyền phải là trách nhiệm của tất cả các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức nhân dân dưới sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng. Đây cũng là một trong những hoạt động quan trọng trong công tác đối nội, đối ngoại của Đảng, Nhà nước với mục đích bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người của nhân dân ta và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các thế lực phản động, thù địch lợi dụng nhân quyền chống phá Nhà nước ta.

Các quan điểm trên vừa là sự kế thừa có chọn lọc những nhận thức chung của cộng đồng quốc tế, vừa phù hợp với nhận thức của các nước đang phát triển; do đó nhận được sự chia sẻ rộng rãi. Đây cũng là một đóng góp quan trọng về mặt lý luận của Việt Nam trên lĩnh vực quyền con người.

3. Xác định được những nhiệm vụ ưu tiên trong việc thực thi quyền con người ở Việt Nam

Là một quốc gia đang phát triển, để hiện thực hóa đầy đủ các quyền con người ở Việt Nam, Đảng ta nhận rõ phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp, nhằm tạo ra môi trường, điều kiện cho việc thực thi nhân quyền. Trên cơ sở không ngừng nâng cao nhận thức, giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ là nhiệm vụ hàng đầu để bảo đảm quyền con người ở Việt Nam, một số lĩnh vực cần được ưu tiên thực hiện trước, một số lĩnh vực cần được thực hiện ngay từ đầu và suốt quá trình phát triển.

Thứ nhất, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kiện toàn các thiết chế bảo vệ, thúc đẩy quyền con người

Trước hết, Đảng nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng và hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền con người. Từ chủ trương ưu tiên xây dựng các luật về kinh tế (Đại hội VIII) nhằm mở đường cho kinh tế phát triển, các đại hội Đảng đều nhấn mạnh nhiệm vụ xây dựng các luật có liên quan trực tiếp đến việc thực thi quyền con người, như Luật Lao động, Luật Báo chí, Luật Trưng cầu ý dân, Luật Bảo hiểm xã hội...; đồng thời chú trọng hoàn thiện pháp luật, để sao cho mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều có luật điều chỉnh.

Trong bối cảnh mới, Đảng chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền theo định hướng XHCN là nhằm tạo ra môi trường, điều kiện tốt nhất để bảo đảm quyền con người ở Việt Nam. Đại hội XI của Đảng (2011) chỉ rõ, đó là nhà nước được tổ chức và vận hành theo nguyên tắc “quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(16); đồng thời chủ trương “Đẩy mạnh cải cách lập pháp, hành pháp và tư pháp, đổi mới tư duy và quy trình xây dựng pháp luật, nâng cao chất lượng hệ thống pháp luật (...). Tập trung xây dựng nền hành chính nhà nước trong sạch, vững mạnh, bảo đảm quản lý thống nhất, thông suốt, hiệu lực, hiệu quả”(17)...

Xây dựng Nhà nước pháp quyền là nâng cao tính pháp quyền trong xây dựng các công cụ pháp lý, trong lĩnh vực hành chính công vàtrong thực tiễn hoạt động tư pháp.

Trên cơ sở định hướng “tạo bước chuyển mạnh về cải cách hành chính”, việc xây dựng nền hành chính côngđược chuyển đổi mạnh sang hướngphục vụ nhân dân; coi trọng chế độ công vụ và nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức trong mọi hoạt động: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức (...) có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy phục vụ nhân dân (...). Công khai các chuẩn mực, các quy định hành chính để nhân dân giám sát việc thực hiện. Tăng cường tính minh bạch, trách nhiệm trong hoạt động công vụ”(18).

Bên cạnh việc tổ chức bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, hiệu quả, Nhà nước từng bước nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của các cơ quan công quyền - một nội dung của quyền được thông tin; đồng thời qua đó tạo điều kiện để người dân có thể tham gia hiệu quả vào công việc chung của đất nước, theo phương hướng “Hoàn thiện cơ chế để tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp”(19).

Thứ hai, phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa, bảo đảm và nâng cao sự hưởng thụ các quyền con người

Đảng chủ trương xây dựng cơ chế thị trường định hướng XHCN, nhằm tăng nhanh tiềm lực vật chất cho việc bảo đảm quyền con người; đồng thời, chủ trương thực hiện công bằng xã hội ngay trong từng bướcvà từngchính sách phát triển, nhằm bảo đảm điều kiện sống và phát triển cho mọi thành viên xã hội.

Phát triển kinh tế là nhằm nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của nhân dân. Nhưng cần chú trọng tạo cơ hội bình đẳng tiếp cận các nguồn lực phát triển và hưởng thụ các dịch vụ cơ bản, các phúc lợi xã hội. Đồng thời, cần nỗ lực thực hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa dạng hóa các nguồn lực và phương thức để bảo đảm giảm nghèo bền vững, nhất là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm giàu theo pháp luật. Có chính sách và các giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị(20)...

Trong quá trình phát triển đất nước, quyền được hưởng thành quả của sự phát triển, cũng như được phân phối công bằng của cải xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giữ vững ổn định xã hội, phát triển bền vững đất nước.

Sự nghiệp phát triển khoa học, giáo dục luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm và được coi là quốc sách hàng đầu. Việc thúc đẩy khoa học, giáo dục phát triển vừa tạo sự phát triển bền vững của đất nước, vừa tạo cơ hội để người dân có thể tự do phát triển năng lực cá nhân. Bên cạnh đó, Đảng, Nhà nước chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng cao sự hưởng thụ văn hóa cho mọi người dân trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của văn minh nhân loại và hội nhập quốc tế; đồng thời bảo tồn được những giá trị văn hóa của các dân tộc Việt Nam - những nội hàm cơ bản của quyền văn hóa. Sự phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội những năm qua đã góp phần nâng cao việc thụ hưởng các quyền con người của mọi người dân Việt Nam.

Thứ ba, mở rộng dân chủ, giữ vững ổn định chính trị, xã hội nhằm bảo vệ và thực hiện đầy đủ các quyền con người

Trong bối cảnh hội nhập và phát triển, Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nền dân chủ XHCN, dưới nhiều hình thức sáng tạo, kết hợp thực hiện dân chủ ở cơ sở với không ngừng dân chủ hóa mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm thực hiện ngày càng đầy đủ các quyền con người. Dân chủ hóa còn được thể hiện thông qua việc thúc đẩy quyền tự do ngôn luận, quyền tiếp cận thông tin, thu hút sự tham gia của người dân và cả hệ thống chính trị trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người...

Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 - 2020 của Đảng nêu rõ: “Mở rộng dân chủ, phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển. Phải bảo đảm quyền con người, quyền công dân và các điều kiện để mọi người được phát triển toàn diện. Nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả năng sáng tạo và bảo đảm đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực phát triển đất nước”(21).

Trong gần 30 năm thực hiện chính sách đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm xây dựng các cơ chế bảo vệ quyền con người phù hợp với đặc thù Việt Nam và tiếp tục nghiên cứu các mô hình phổ biến hiện nay các nước đang áp dụng. Quá trình phát triển dân chủ ở Việt Nam diễn ra tích cực song thận trọng đã góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, hóa giải mọi xung đột bên trong, tạo môi trường hòa bình và các điều kiện thiết yếu cho việc thực hiện quyền con người.

Đất nước đang hội nhập và phát triển nhanh chóng đặt ra nhiều yêu cầu, nhiệm vụ mới, nặng nề, đòi hỏi Đảng phải giải quyết thành công nhiều mối quan hệ lớn, trong đó có những yêu cầu mới về nhân quyền, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng và định hướng XHCN ở nước ta. Để giải quyết thành công những vấn đề mới đặt ra, cần đầu tư nghiên cứu, làm sáng tỏ nhiều vấn đề lý luận quan trọng, như về vai trò động lực của quyền con người đối với sự phát triển của cá nhân, xã hội cũng như đối với mỗi quốc gia; về vai trò của Nhà nước pháp quyền, cơ chế thị trường, sự tham gia của người dân, của các tổ chức xã hội... như những điều kiện cho việc bảo vệ quyền con người. Đặc biệt, cần làm rõ vị trí của vấn đề quyền con người trong lý luận của CNXH khoa học...

Thành tựu lý luận trên lĩnh vực quyền con người trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới, có ý nghĩa to lớn, không chỉ thể hiện sự kiên định lựa chọn con đường XHCN của Đảng, mà còn góp phần vào kho tàng lý luận của các lực lượng tiến bộ và cách mạng trên thế giới. Với những định hướng đúng đắn nói trên, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã và đang giải quyết thành công những nhiệm vụ đặt ra trên lĩnh vực nhân quyền trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập quốc tế, vừa bảo đảm ngày càng tốt hơn quyền con người cho mọi người dân Việt Nam, vừa góp phần tích cực vào việc thúc đẩy nhân quyền quốc tế, vì một thế giới hòa bình, hữu nghị và tiến bộ xã hội./.

GS, TS. Tạ Ngọc Tấn

Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng,

Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Theo http://lyluanchinhtri.vn

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2014

Thu Hiền (st)

(1) Việt Nam tham gia các công ước nhân quyền đầu tiên năm 1981; tham gia hai công ước cơ bản nhất về nhân quyền năm 1982.

(2), (3), (4), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.51, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr. 154, 156, 145, 135-136.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr.130.

(7) Nghị quyết 01-NQ/TW (1992) của Bộ Chính trị “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”.

(8) Điều 50 Hiến pháp 1992.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.134.

(10), (11), (12),(16), (17), (18), (19), (21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểutoàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.237, 239, 76, 52, 141-142, 143, 142, 100.

(13), (14) Chỉ thị 12-CT/TW (năm 1992) của Ban Bí thư về “Vấn đề quyền con người và quan điểm, chủ trương của Đảng ta”.

(15) Chỉ thị 41/2004/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”.

(20) Xem ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 124-125.

Bài viết khác: