Thứ bảy, 21/12/2024

Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, tại Điều 4 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối Nhà nước và xã hội.

        Tuy nhiên, trong quá trình lấy ý kiến tham gia của nhân dân vào Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992 và cả sau khi Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII biểu quyết thông qua sửa đổi Hiến pháp 1992 (28-11-2013) vẫn có một số ý kiến đề nghị bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, vì cho rằng, làm như vậy là Đảng Cộng sản Việt Nam “tự áp đặt quyền lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội”, là “trái với quyền làm chủ của nhân dân, quyền con người, quyền công dân và là ngược với bản chất của nhà nước pháp quyền”, rằng “chủ thể lãnh đạo hãy để cho dân bầu chọn trong các cuộc bầu cử tự do, dân chủ, định kỳ…., việc đảng cầm quyền chấp nhận cạnh tranh chính trị là phù hợp với xu thế lịch sử, là điều kiện cho sự phát triển của đất nước, đáp ứng đòi hỏi của nhân dân, kể cả của các đảng viên trung thực của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bối cảnh hiện nay của đất nước”. Về thực chất, những ý kiến đó chỉ là sự áp đặt chủ quan mà không dựa trên cơ sở lý luận khoa học và thực tiễn. Vấn đề đặt ra không phải chuyện thích để hay là bỏ Điều 4 trong Hiến pháp; không phải là để cho nhân dân tự do muốn lựa chọn chủ thể lãnh đạo của đất nước là tổ chức, lực lượng nào cũng được; không phải chuyện Đảng Cộng sản Việt Nam bỗng dưng tự rút khỏi vũ đài chính trị, tự từ bỏ vai trò cầm quyền của mình để trở thành một lực lượng đối lập, cạnh tranh chính trị với các đảng phái chính trị khác cho hợp xu thế lịch sử. Vấn đề đặt ra ở đây là phải lý giải cho rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

      *Về mặt lý luận, theo quan điểm của học thuyết Mác - Lênin về chính đảng của giai cấp công nhân; tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Đảng đã khẳng định rõ cơ sở lý luận về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân và của cả dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp công nhân, nhân dân lao động lật đổ chế độ thực dân, phong kiến; xây dựng một xã hội mới, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản. Khi chưa giành được chính quyền, Đảng trực tiếp lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động đứng lên làm cách mạng; khi cách mạng thành công, xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân, Đảng trở thành đảng cầm quyền, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

          *Về mặt thực tiễn,Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng được giai cấp công nhân, nhân dân, dân tộc tin cậy trao cho sứ mệnh lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam.Nhìn lại lịch sử dân tộc ta cho thấy,vào những năm cuối của thế kỷ XIX và những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, mặc dù phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp, phong trào yêu nước của nhân dân ta diễn ra sôi nổi, rộng khắp nhưng do chưa có một đường lối đúng đắn nên đều bị thất bại. Tình hình đó đòi hỏi phải có một tổ chức, một lực lượng chính trị có lý luận cách mạng soi đường, có đường lối cách mạng đúng đắn để lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do cho dân tộc. Và chính trong bối cảnh đó Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 03-02-1930 đã mở ra bước ngoặt quyết định trong quá trình phát triển của dân tộc ta, chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.

       Ngay từ khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc nhiệt tình hưởng ứng, ủng hộ, tin theo và lựa chọn là lãnh tụ chính trị của mình. Đó là sự lựa chọn hoàn toàn chính xác, đúng đắn, phù hợp với xu thế vận động tất yếu của lịch sử và đặc điểm của dân tộc Việt Nam.

         Thực tiễn hơn 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta đánh đổ chế độ thực dân, phong kiến, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc; tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Sau Ngày giải phóng miền Nam (4-1975) đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; đánh thắng 2 cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước, bảo vệ  độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển thiêng liêng của Tổ quốc; thực hiện trọn vẹn nhiệm vụ quốc tế cao cả đối với nhân dân Campuchia anh em; lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, thu được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, kéo dài, tiếp tục phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa.

          Thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam đã chứng minh rằng, trong cuộc đấu tranh giành chính quyền, trong những năm kháng chiến đầy hy sinh, gian khổ, Đảng luôn trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân, của toàn dân tộc; đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng đã anh dũng chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, trong hoàn cảnh nào vẫn một lòng trung thành với sự nghiệp cách mạng, vì cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do cho dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Chính vì vậy mà nhân dân ta, dân tộc ta thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là lãnh tụ chính trị của mình mà không lựa chọn các đảng phái chính trị khác, và một lòng ủng hộ Đảng, bảo vệ Đảng, chịu sự lãnh đạo của Đảng, mang hết sức người, sức của phấn đấu vì mục tiêu của Đảng.

       Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay càng khẳng định rõ, Đảng ta không tranh giành quyền lãnh đạo với các đảng phái, các tổ  chức chính trị nào khác, do đó việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội là hoàn toàn hợp hiến, đúng đắn và cần thiết. Điều đó hoàn toàn khác với chế độ tư bản. Bởi lẽ, trong chế độ tư bản, thực hiện chế độ đa đảng, mặc dù đảng tư sản là đảng cầm quyền nhưng các đảng phái chính trị trong xã hội tư bản vẫn phải cạnh tranh quyết liệt với nhau để giành ưu thế trong nhà nước tư sản, thông qua nhà nước để thực hiện vai trò lãnh đạo của mình đối với nhà nước và xã hội, để bảo vệ lợi ích của đảng mình, giai cấp mình. Điều đó lý giải vì sao trong hiến pháp tư sản không có một điều riêng về sự lãnh đạo của một đảng chính trị đối với nhà nước và xã hội. Do vậy, trong chế độ tư bản, khi đã thực hiện chế độ đa đảng thì về mặt pháp lý buộc phải thừa nhận nhà nước tư sản là chủ thể lãnh đạo xã hội, còn thực chất các đảng phái của giai cấp tư sản vẫn thay nhau cầm quyền.

        Thế nhưng, trong nhiều năm qua, các học giả tư sản, các phần tử cơ hội về chính trị, các thế lực phản động trong nước và nước ngoài luôn đòi bỏ Điều 4 trong Hiến pháp, không thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội, thực chất là họ muốn đưa nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa, thực hiện chế độ đa đảng như các nước tư bản. Các quan điểm đó hoàn toàn trái với khát vọng và mong muốn của nhân dân ta, dân tộc ta, đã và đang phấn đấu vì một chế độ xã hội tốt đẹp, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

             Một số ý kiến cho rằng, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, bên cạnh những công lao, thành tựu to lớn, Đảng còn mắc phải một số sai lầm, khuyết điểm trong việc xác định những chủ trương, chính sách; trong lãnh đạo, chỉ đạo các lĩnh vực của đời sống xã hội; trong giải quyết những vấn đề quan hệ quốc tế, nhưng lịch sử đã chứng minh rằng, những sai lầm, khuyết điểm đó không bắt nguồn và phản ánh bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà sau những sai lầm, khuyết điểm đó Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm và quyết tâm sửa chữa để tiếp tục lãnh đạo đất nước đi lên, được nhân dân đồng tình, ủng hộ. Vì vậy, nếu chỉ vì một số sai lầm, khuyết điểm của Đảng mà đòi bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; vì những yếu kém, tiêu cực của một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước mà đòi bỏ vai trò quản lý của Nhà nước đối với xã hội là hoàn toàn sai lầm, chủ quan, phiến diện và không có cơ sở khoa học.

         Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, nhưng Đảng không phải là một tổ chức siêu quyền lực, đứng trên Nhà nước, nhân dân, xã hội mà thể hiện rõ vị trí, vai trò, mối quan hệ của Đảng trong hệ thống chính trị của đất nước. Đảng lãnh đạo Nhà nước, chăm lo xây dựng Nhà nước vững mạnh, tôn trọng vai trò, chức năng quản lý của Nhà nước đối với hệ thống chính trị và xã hội mà Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận  trong hệ thống chính trị. Nhà nước có trách nhiệm quán triệt, cụ thể hóa quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng thành Hiếp pháp, pháp luật, đến lượt mình, mọi tổ chức và đảng viên của Đảng đều phải chấp hành, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo xã hội, lãnh đạo nhân dân nhưng vì lợi ích của nhân dân, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Đó là những vấn đề rất cơ bản, cốt tử được khẳng định ở Điều 4 trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, qua đó phản ánh rõ bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam - một Đảng Cộng sản chân chính, thể hiện rõ bản chất ưu việt của chế độ xã hội nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân./.

Tác giả: Đại tá, PGS, TS Tô Xuân Sinh

Nguồn: Viện Khoa học Xã hội & Nhân văn Quân sự - Bộ Quốc phòng

Thu Phương (st)

Bài viết khác: