Nhận thức rõ trách nhiệm với Tổ quốc và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ Bùi Bằng Đoàn rời quê hương, dấn thân vào con đường cách mạng.
Cụ Bùi Bằng Đoàn đã từng giữ các chức vụ: Cố vấn Chủ tịch Nước, Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, Đại biểu Quốc hội khóa I, Trưởng ban Thường trực Quốc hội (nay là Chủ tịch Quốc hội) từ tháng 11/1946 đến khi tạ thế tháng 4/1955.
Theo nhận định của ông Vũ Mão - nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội, với cương vị là Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Cụ đã đầu tư nhiều vào việc xây dựng phương thức hoạt động của Quốc hội sao cho phù hợp với thực tế kháng chiến để đạt được hiệu quả cao.
Vị quan thanh liêm, chính trực
Cụ Bùi Bằng Đoàn sinh năm 1889 tại làng Liên Bạt, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Đông (nay thuộc thành phố Hà Nội) trong một gia đình có truyền thống Nho học. Ông nội là Tiến sĩ Bùi Tuấn, hàm Thái tử Thiếu bảo, từng làm Giám khảo các kỳ thi Hương, giữ chức Tả Tham tri Bộ Binh kiêm Tổng đốc tỉnh Bắc Ninh. Cha là Bùi Tập từng giữ chức Tuần phủ tỉnh Hưng Hóa (một tỉnh cũ dưới thời Pháp thuộc, hiện nay phần đất chủ yếu của Hưng Hóa, tỉnh Phú Thọ).
Mồ côi cha mẹ từ rất sớm, cả 6 anh em Bùi Bằng Đoàn được người chú dượng là Dương Lâm (tức cụ Thiếu bảo Vân Đình lúc đó làm Tham tri Nha Kinh lược Bắc Kỳ) đưa về nuôi dưỡng và dạy học chữ Hán.
Khoa thi năm Bính Ngọ 1906, ba anh em Bùi Bằng Phấn, Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn đều ứng thí. Kết quả, Bùi Bằng Phấn đỗ Tú tài, còn Bùi Bằng Thuận và Bùi Bằng Đoàn cùng đỗ Cử nhân. Ba anh em được mệnh danh là Hà Đông tam bằng.
Con đường quan lộ của cụ Bùi Bằng Đoàn hanh thông. Năm 1907, thi vào trường Hậu Bổ (như trường Hành chính quốc gia) tại Hà Nội, năm 1911 tốt nghiệp. Cụ đã từng làm Tri phủ Xuân Trường, tỉnh Nam Định, Án sát tỉnh Bắc Ninh, Tuần phủ các tỉnh Cao Bằng, Ninh Bình.
Khi làm quan, Cụ nổi tiếng là vị quan đức độ, thanh liêm, chính trực, chăm dân. Trên công đường ở những nơi làm quan, Cụ đều cho treo một bảng thông báo không nhận quà biếu. Với người nhà, Cụ rất nghiêm khắc, cấm tiệt việc nhận quà, nếu lỡ nhận rồi thì phải mang trả lại.
Lúc làm Tri phủ Xuân Trường (Nam Định), Bùi Bằng Đoàn đã đề xuất và thực hiện việc đắp đê Bạch Long ngăn nước mặn, tạo lập được một vùng trồng lúa và trồng dâu rộng lớn. Ghi công đức của Cụ, dân địa phương đã làm lễ tế sống vị phụ mẫu chi dân trẻ tuổi ngay nơi nhậm chức.
Cụ Bùi Bằng Đoàn (bên phải), cùng Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.
Ảnh tư liệu.
Năm 1925, trước việc báo chí lên án cảnh phu đồn điền ở miền Nam bị bóc lột dã man, Chính phủ Nam triều đã cử Bùi Bằng Đoàn vào Nam Bộ thanh tra các đồn điền cao su của Pháp.
Cụ đã tiến hành thanh tra thấu đáo, viết một bản báo cáo dày đến 100 trang bằng tiếng Pháp nêu rõ những điều vô lý trong chính sách đối với phu đồn điền.
Những kiến nghị xác đáng của Cụ đã được nhà đương cục chấp nhận, giảm thiểu những chế độ hà khắc đối với công nhân đồn điền cao su thời đó.
Năm 1925, mặc dù đang làm Tri phủ Nghĩa Hưng (tỉnh Nam Định) nhưng Cụ vẫn được mời lên Hà Nội làm thông ngôn cho phiên toà đại hình xử vụ án cụ Phan Bội Châu.
Với tính cách cương trực, bênh vực lẽ phải, Bùi Bằng Đoàn đã thông dịch rõ ràng, trung thực những lý lẽ đanh thép của cụ Phan Bội Châu để rồi sau đó toà án đã không khép được cụ Phan vào án chung thân mà giảm xuống hình thức an trí ở Huế.
Đầu năm 1933, Cụ được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Ninh Bình, không lâu sau đó khi Phạm Quỳnh tổ chức Nội các, Cụ được bổ nhiệm làmThượng thư bộ Hình.
Trong mười hai năm ở kinh đô Huế, Cụ trông nom việc xử kiện tại tất cả các tỉnh Trung Kỳ, chỉ đạo việc soạn thảo các luật cho Trung Kỳ đều bằng tiếng Pháp, tiếng Việt và dịch ra chữ Hán.
Một lòng theo cách mạng
Tháng 3/1945, Nhật đảo chính Pháp, Vua Bảo Đại xuống chiếu thành lập Chính phủ, Cụ đã từ chối tham gia Chính phủ, cáo quan về quê. Tuy nhiên, Chính phủ Nam triều đã nhất quyết mời Cụ ở lại để giữ chức Chánh nhất Toà Thượng thẩm Hà Nội.
Ở thời điểm “đêm trước” của cách mạng, tổ chức Việt Minh đã tiếp xúc và mời Cụ làm Hội trưởng Hội Bảo vệ tù chính trị.
Ngày 2/9 /1945, Cụ được mời tham gia dự lễ Tuyên ngôn Độc lập tại Ba Đình. Tại buổi lễ đó, cụ Bùi Bằng Đoàn đã gặp Hồ Chủ tịch. Bác Hồ có nhã ý mời cụ Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền cách mạng – Cụ đã kể lại việc này cho con cháu ngay sau đó. Tuy nhiên, theo lẽ thường, Cụ “treo ấn, từ quan”, về an trí ở quê nhà Liên Bạt, Hà Tây.
Sống trong cảnh điền viên chẳng được bao lâu, ngày 17/11/1945, Cụ nhận được thư của Hồ Chủ tịch mời ra gánh vác việc nước. Bức thư viết:
Thưa Ngài,
Tôi tài đức ít ỏi, mà trách nhiệm nặng nề. Thấy Ngài học vấn cao siêu, kinh nghiệm phong phú. Vậy nên, tôi muốn mời Ngài làm Cố vấn cho tôi để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà dân tộc. Cảm ơn và chúc Ngài mạnh khỏe.
Kính thư
Hồ Chí Minh
Từ ngày nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, cụ Bùi Bằng Đoàn trở thành một công dân của một nước độc lập tự do. Với tài năng, đức độ của mình, Cụ được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời đảm nhiệm nhiều công việc quan trọng của quốc gia.
Từ một vị quan thanh liêm, chính trực làm việc dưới triều đình phong kiến, nhận thức rõ trách nhiệm của công dân đối với Tổ quốc và mến mộ tài đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cụ rời quê hương, dấn thân vào con đường cách mạng, tham gia xây dựng chính quyền mới.
Trong phiên họp của Chính phủ ngày 14/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị thành lập một Ban Cố vấn riêng cho Người gồm 10 vị, trong đó có cụ Bùi Bằng Đoàn.
Nhằm đảm bảo cho bộ máy nhà nước được trong sạch, vững mạnh, ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thiết lập Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ, trong đó có cụ Bùi Bằng Đoàn.
Ban này nhận đơn khiếu nại của nhân dân và có toàn quyền điều tra, kể cả việc xem xét các tài liệu của Ủy ban nhân dân hay của Chính phủ nếu thấy cần thiết cho công tác giám sát. Ban có quyền đình chỉ chức vụ, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Ủy ban nhân dân hay của Chính phủ đã phạm khuyết điểm, sai lầm.
Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78/SL thành lập Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến thiết quốc gia trực thuộc Chính phủ, đặt dưới quyền điều khiển của Chủ tịch Chính phủ. Ủy ban gồm 40 vị là những trí thức, nhân sĩ, các bộ trưởng và thứ trưởng, trong đó có cụ Bùi Bằng Đoàn. Việc thành lập Ủy ban này đã góp phần động viên và tạo cơ sở pháp lý để các trí thức, nhân sĩ yêu nước phát huy trí tuệ và tài năng của mình phục vụ sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc.
Ngày 6/1/1946, cụ Bùi Bằng Đoàn ứng cử Đại biểu Quốc hội tại tỉnh Hà Đông và trúng cử, đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ cử Cụ làm Trưởng ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ.
Ngày 2/3/1946, Cụ được bầu vào Ban Thường trực Quốc hội. Khối đoàn kết dân tộc được tiếp tục củng cố và mở rộng, nhiều đoàn thể mới được thành lập, đặc biệt là Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt). Một ban vận động thành lập Hội gồm 27 vị, trong đó có cụ Bùi Bằng Đoàn.
Ngày 29/5/1946, Hội chính thức tuyên bố thành lập ở Hà Nội. Trong 8 tháng hoạt động kể từ kỳ họp thứ nhất tháng 3/1946 đến kỳ họp thứ hai tháng 10 cùng năm, Ban Thường trực Hội Liên Việt đã nỗ lực hoạt động giữ vững nguyên tắc dân chủ, cùng Chính phủ đưa nước nhà vượt qua mọi khó khăn, giữ vững chính quyền cách mạng.
Ngày 8/1/1946, Cụ được cử làm Trưởng ban Thường trực Quốc hội thay cho cụ Nguyễn Văn Tố.
Khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ngày 18/12/1946, cơ quan Ban Thường trực Quốc hội phải sơ tán đến địa điểm mới, và chính ngôi nhà của Cụ tại thôn Liên Bạt, Ứng Hòa, Hà Tây đã trở thành trụ sở làm việc của Ban một thời gian.
Năm 1947 và năm 1948, Cụ hoạt động ở Chiến khu Việt Bắc. Ban Thường trực Quốc hội đã đóng góp nhiều ý kiến với Chính phủ.
Các phiên họp của Chính phủ đều có sự tham dự, góp ý của Trưởng ban Thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn. Nhiều vấn đề đối nội, đối ngoại quan trọng của đất nước, Chính phủ đều lắng nghe ý kiến của Cụ.
Tham gia chính quyền mới, cụ Bùi Bằng Đoàn toàn tâm toàn ý phụng sự nhân dân, phụng sự kháng chiến. Với cương vị là Trưởng ban Thường trực Quốc hội, Cụ đã đầu tư nhiều vào việc xây dựng phương thức hoạt động của Quốc hội sao cho phù hợp với thực tế kháng chiến để đạt được hiệu quả cao.
Ngày nay, Quốc hội đang trong quá trình đổi mới để thực hiện tốt hơn vai trò của cơ quan lập pháp. Uống nước nhớ nguồn, chúng ta không quên ôn lại những cống hiến của các vị tiền bối trong việc dựng xây Quốc hội của nhà nước dân chủ trong những ngày mới thành lập.
Chính vì thế, việc sưu tầm và nghiên cứu các tài liệu thời kỳ đó, giúp cho chúng ta nhiều bài học bổ ích. Tôi muốn nêu lại biên bản một cuộc họp của Ban Thường trực Quốc hội để mọi người có thể hình dung được vai trò, phương thức hoạt động của Quốc hội và Ban Thường trực Quốc hội thời kháng chiến chống thực dân Pháp; đồng thời thấy được tinh thần trách nhiệm rất cao trước nhân dân của một thế hệ cha ông, trong đó có sự đóng góp to lớn của cụ Bùi Bằng Đoàn.
Cụ Bùi Bằng Đoàn làm Trưởng Ban Thường trực Quốc hội từ 1946 - 1955. Ảnh tư liệu.
Người bạn tri âm của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thâm thúy, hiểu biết sâu sắc nhân tình thế thái. Người rất tôn trọng tài năng và đức độ của các nhân sĩ, trí thức, trong đó có cụ Bùi Bằng Đoàn. Chính vì thế, Bác đã hai lần viết thư mời cụ Bùi Bằng Đoàn tham gia chính quyền cách mạng nhưng Cụ đều lưỡng lự, xin được miễn.
Lần thứ ba, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử Bí thư Vũ Đình Huỳnh về Hà Đông để trao tận tay Cụ bức thư riêng của Người, trong đó có câu thơ cổ 7 chữ: “Thu thủy tàn hà thính vũ thanh” (Dòng nước thu, bông sen tàn nghe tiếng mưa rơi).
Câu thơ này đã được nhiều vị nhân sĩ, trí thức luận giải về ý nghĩa nhưng vẫn chỉ tạm đoán ý chứ chưa hẳn đã hiểu hết nghĩa; ý là: Cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, bông sen tàn nhờ mưa lại nở. Sau khi đọc bức thư này, Cụ vui vẻ nhận lời ra gánh vác công việc chung không phải để làm quan mà “để giúp thêm ý kiến trong công việc hưng lợi, trừ hại cho nước nhà”.
Ngày 22/11/1945, Cụ được đón về nhà số 8 phố Lê Thái Tổ. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đợi Cụ ở cửa phòng khách, rồi hai Người cùng đi dạo dưới hàng cây trong vườn, trò chuyện tâm đắc như đôi bạn cố tri lâu ngày tái ngộ.
Cụ Bùi Bằng Đoàn làm việc trong một thời gian ngắn tại Chiến khu Việt bắc. Tại đây, mối thâm giao giữa Bác Hồ và cụ Bùi Bằng Đoàn không chỉ là của người cùng chí hướng vì nước vì dân mà còn là của những người bạn tri âm.
Mùa Đông 1947, Pháp mở cuộc tấn công quy mô lên Chiến khu Việt Bắc, nhưng chúng thất bại lớn, quân ta giành thắng lợi vẻ vang.
Trong không khí đầu xuân chiến thắng, Tết chiến khu năm ấy, Hội đồng Chính phủ họp và liên hoan lửa trại. Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng Cụ một bài thơ bằng chữ Hán:
Khán thư sơn điểu thê song hãn/ Phê trát xuân hoa chiếu nghiễn trì/ Tiệp báo tần lai lao dịch mã/ Tư công tức cảnh tặng tân thi.
Lời dịch:
Xem sách chim rừng vào cửa đậu/ Phê văn hoa núi ghé nghiêng soi/ Tin vui thắng trận dồn chân ngựa/ Nhớ cụ thơ xuân tặng một bài.
Trong buổi hôm ấy, Bác đã khuyến khích mọi người trình bày các tiết mục tự biên. Cụ Bùi Bằng Đoàn liền phát biểu và đọc bài thơ họa bằng chữ Hán:
Thiết thạch nhất tâm phù chủng tộc/ Giang sơn vạn lý thủ thành trì/ Tri công quốc sự vô dư hạ/ Thao bút nhưng thành thóai lỗ thi.
Lời dịch:
Sắt đá một lòng vì chủng tộc/ Non sông muôn dặm giữ cơ đồ/ Biết Người việc nước không hề rảnh/ Vung bút thành thơ đuổi giặc thù.
Mọi người cùng trầm trồ, Thứ trưởng Bộ Giao thông – Thủy lợi Đặng Phúc Thông thốt lên: “Thật đúng hai trái tim cao cả cùng một nhịp đập!”.
Ngày 19/4/1947, trong lúc Hội đồng Chính phủ họp ở Mỏ Giác, châu Tự Do, Bác Hồ thóang thấy vẻ mệt mỏi trên khuôn mặt cụ Bùi Bằng Đoàn. Bệnh cũ tái phát, Cụ phải đặt tay lên đầu gối để chống đỡ. Thấy hiện tượng không bình thường ở Cụ, Bác cho gọi bác sĩ tới khám bệnh ngay cho Cụ.
Ngày 12/8/1948, vừa đi dự Hội nghị Cán bộ Trung ương lần thứ 5 về, Bác nhận tin Cụ bị tai biến mạch máu não. Bác liền cử ngay đồng chí Phan Mỹ – Chánh Văn phòng Chủ tịch phủ và bác sĩ riêng Lê Văn Chánh đến kiểm tra trực tiếp bệnh tình của Cụ. Xét thấy ở An toàn khu không có đủ thuốc men, Bác Hồ quyết định chuyển Cụ về quê, ở gần Hà Nội để có điều kiện chữa trị.
Khi về gần đến nhà thì gặp lính Pháp đang càn quét ở Vân Đình, Cụ phải lánh đi. Lúc đó, một mình cụ bà Trần Thị Đức ở nhà, đang cất giấu tài liệu của Quốc hội và của Đảng thì bị giặc Pháp ập vào bắn chết. Trong những ngày ấy, tình trạng sức khỏe của cụ Bùi Bằng Đoàn rất yếu nên mọi người không cho Cụ hay chuyện này. Mãi tới năm 1955, khi về thăm nhà, mọi người mới cho Cụ biết.
Đầu năm 1949, Cụ được chuyển vào vùng tự do Thanh Hóa để yên tâm chữa bệnh. Khi đặc phái viên Trần Đăng Ninh vào Thanh Hóa công tác, Bác Hồ đã ủy quyền cho ông đến thăm sức khỏe và chuyển một bộ quần áo lụa Hà Đông làm quà tặng nhân sinh nhật lần thứ 60 cụ Bùi Bằng Đoàn. Món quà ý nghĩa này cũng giúp Cụ khuây khỏa nỗi nhớ quê hương.
Những năm tháng cụ Bùi Bằng Đoàn phải đi chữa bệnh ở xa Trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn thường xuyên quan tâm tới Cụ, tạo điều kiện để Cụ theo dõi tin tức và đóng góp ý kiến. (Thời gian này, Bác Tôn Đức Thắng được cử giữ chức Quyền Trưởng ban Thường trực Quốc hội).
Sau ngày Hà Nội được giải phóng, cụ Bùi Bằng Đoàn được đón về ở tại số 10 phố Trần Hưng Đạo, gần Bệnh viện Quân đội 108 ngày nay để tiện chữa bệnh. Tuần nào Bác cũng đến thăm Cụ một lần. Có hôm hai người đàm đạo tới khuya.
Ngày 13/4/1955, lúc 8h30 phút, cụ Bùi Bằng Đoàn qua đời tại Viện Quân y 108.
Từ Thượng thư Bộ hình Nam triều, nổi tiếng thanh liêm, chính trực, cụ Bùi Bằng Đoàn đã vượt qua những định kiến của thời cuộc để tham gia chính quyền cách mạng.
Tấm lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân của cụ Bùi Bằng Đoàn là một tấm gương sáng để chúng ta kính trọng và noi theo.
Còn nữa
Ngọc Quang ghi theo lời kể của ông Vũ Mão
Huyền Trang (st)