Ngày 4 tháng 11 năm 2013, Đảng ta ra Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI: “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo”. Tư tưởng Hồ Chí Minh nêu trong bài viết sau đây là cơ sở để vận dụng góp phần quán triệt và thực hiện tốt Nghị quyết này ở nước ta hiện nay.
1. Dốt là một loại giặc
Ngày 3-9-1945, ngày đầu tiên sau Quốc khánh (2-9-1945), Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa họp bàn những nhiệm vụ cấp bách. Tại đây, Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba "nạn" đang đe dọa sự sống còn của chính quyền công nông non trẻ và của đất nước nói chung. Đó là: Nạn đói, nạn dốt, nạn ngoại xâm và Người còn gọi là: "Giặc" và đề xuất ba nhiệm vụ cấp bách: diệt giặc đói, diệt giặc dốt và giặc ngoại xâm(1).
Dốt là một loại "giặc", diễn đạt giản dị này của Hồ Chí Minh để cho mọi người dân, mà lúc đó, có tới hơn 90% mù chữ, hiểu được tác hại to lớn, những hậu quả tiêu cực nhiều mặt... của sự dốt nát, kém hiểu biết, thiếu giáo dục...
Hồ Chí Minh đặt giặc dốt bên cạnh giặc đói, giặc ngoại xâm cho thấy, sự khắc phục nạn dốt, nâng cao dân trí cũng không kém phần khó khăn, gian khổ, cần đến sự quyết tâm cao của từng người và toàn xã hội. Hơn nữa, khi các loại giặc "cộng hưởng" với nhau thì việc khắc phục chúng khó khăn hơn nhiều: "Dốt nát cũng là kẻ địch. Địch dốt nát giúp cho địch ngoại xâm. Địch dốt nát tấn công ta về tinh thần, cũng như địch thực dân tấn công ta bằng vũ lực. Địch thực dân dựa vào địch dốt nát để thi hành chiến lược ngu dân. Địch dốt nát dựa vào địch thực dân để đưa dân ta vào nơi mù quáng"(2).
Mù quáng - không hiểu biết dẫn đến hiểu sai, làm sai. Cá nhân nào dốt nát là chịu thiệt thòi và nhiều khi bị biến dạng đi vì: "Dốt thì dại, dại thì hèn"(3), còn một dân tộc nào mà dân trí thấp, toàn những người thất học thì đó là "một dân tộc yếu". Khái quát của Hồ Chí Minh: "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu"(4) là mang tầm triết lý sâu sắc, nhưng cũng thật dễ hiểu về tầm quan trọng, sức mạnh của tri thức, sự hiểu biết đối với một dân tộc trong sự nghiệp giải phóng và phát triển của mình.
Cũng do vậy, ngay từ những ngày đầu đi tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã nhận ra một sự thật về các chính quyền thuộc địa là: "Làm cho u mê để thống trị, đó là phương pháp mà nhà cầm ở các nước thuộc địa của chúng ta ưa dùng nhất"(5) và vì thế mà: "Nói chung, quần chúng căn bản là có tinh thần nổi dậy, nhưng còn rất dốt nát. Họ muốn giải phóng, nhưng họ chưa biết làm cách nào để đạt được mục đích"(6).
Khi nói về tác hại của dốt nát, Hồ Chí Minh còn lưu ý đến tính "dây chuyền" của nó, rằng: "Do đó, một sự dốt nát này làm nảy sinh một sự ngu dốt khác và một sai lầm này gây nên các sai lầm khác"(7).
Một nguyên nhân và cũng là biểu hiện trước hết của dốt nát là: Không biết chữ. Người không biết chữ là không tiếp cận được với tri thức qua kênh thông tin quan trọng là sách, báo. Vì thế, trong những năm tháng đầu của chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh phát động phong trào xóa nạn mù chữ: "Vì không chịu dại, không chịu hèn, cho nên thanh toán nạn mù chữ là một trong những việc cấp bách và quan trọng của nhân dân các nước dân chủ"(8).
2. Phê phán chính sách ngu dân của chính quyền thực dân
Các thế kỷ trước, nhiều nước, trong đó có Việt Nam bị các nước tư bản chủ nghĩa xâm chiếm, biến thành thuộc địa. Thấy rõ tai hại của dốt nát, Hồ Chí Minh đã kịch liệt phê phán chính sách ngu dân của chính quyền thực dân đối với các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói riêng.
Trong xã hội phong kiến, vốn nhiều hạn chế, nhưng ở Việt Nam, có những đặc điểm riêng tác động đến học hành. Hồ Chí Minh cho hay "Người An Nam rất hiếu học. Trong các tầng lớp xã hội, người sĩ phu chiếm địa vị hàng đầu. Có con học giỏi là một vinh hạnh cho cha mẹ. cho nên, dù có nghèo đói đến đâu, cha mẹ cũng cố tìm cách cho con cái được học hành. "Nửa bụng chữ bằng một hũ vàng" là một câu tục ngữ biểu hiện nhiệt tình ham muốn có học thức của dân tộc An Nam. Ở làng xã nào cũng có trường công và trường tư. Chữ Nho rất khó học thế mà hầu hết người An Nam đều biết "ký tên bằng chữ Hán". Nạn mù chữ hầu như không còn"(9). Thế nhưng, khi thực dân Pháp vào xâm lược "đã làm thay đổi tất cả": "Đời sống càng ngày càng khó khăn. Thuế má nặng nề, phu dịch thường xuyên. Các gia đình khá giả nay bị sa sút không còn có thể nuôi thầy đồ dạy học cho con cái mình và con cái những người láng giềng như xưa nữa. Những kẻ nghèo đói thì bị bần cùng, nên họ phải chống đói đã rồi mới có thể nghĩ đến chuyện học hành"(10).
Như vậy, thời Pháp thuộc, dân ta dốt nát, thiếu học, trước hết là do đất nước bị thực dân Pháp xâm lược, áp bức, bóc lột và trực tiếp là từ chính sách ngu dân của chúng. Hồ Chí Minh tố cáo, phê phán mạnh mẽ chính sách này: "Khi xưa Pháp cai trị nước ta, chúng thi hành chính sách ngu dân. Chúng hạn chế mở trường học, chúng không muốn cho dân ta biết chữ để dễ lừa dối dân ta và bóc lột dân ta"(11). Cụ thể hơn, Người nêu những nội dung chính của chính sách này sau đây:
- Người dân không có quyền học tập cũng như các quyền khác: "Chúng tôi không có quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, ngay cả quyền tự do hội họp và lập hội cũng không có. Chúng tôi không có quyền cư trú và du lịch ra nước ngoài. Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập"(12).
- Thiếu trường học nhưng "Nhà tù nhiều hơn trường học, lúc nào cũng mở cửa và chật ních người"(13) trẻ em "bị đày vào cảnh ngu dốt chỉ vì không có đủ trường sở cho chúng đi học(14). Việc thiếu thốn trường học một mặt, do chủ trương của thực dân Pháp; mặt khác, do công chức, quan lại tham nhũng tiền bạc chi cho làm trường sở(15).
- Khi hạn chế việc học hành, thì chế độ thực dân lại phát triển những hình thức khác làm trầm trọng thêm sự dốt nát của người dân. "Ở Đông Dương, bọn thực dân tìm mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi đần độn bằng rượu"(16). Và "... người Đông Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội họp, lập hội đi lại đều bị cấm... Việc có những báo chí hoặc tạp chí mang tư tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm quyền bổ sung cho cái công cụ ngu dân của chính phủ. Máy chém và nhà tù làm nốt phần còn lại"(17).
- Tất nhiên, để phục vụ cho chế độ thuộc địa, thực dân Pháp vẫn phải phát triển giáo dục ở mức độ nào đó. Hồ Chí Minh gọi sự giáo dục ấy là "nền học vấn nô lệ"(18) đào tạo nên những người làm tay sai, vì lợi ích của thực dân Pháp.
Nói về nền giáo dục này, Hồ Chí Minh mỉa mai về nội dung, "chỉ được phổ cập một cách quá bủn xỉn và nhỏ giọt", về trường sở và người dạy: "Trường học rõ ràng là thiếu nhiều giáo viên thì chưa đủ tư cách để dạy". Người chỉ rõ bản chất nền giáo dục thuộc địa ở Việt Nam: "Trường học lập ra không phải để giáo dục cho thanh niên An Nam một nền học vấn tốt đẹp và chân thực, mở mang trí tuệ và phát triển tư tưởng cho họ, mà trái lại càng làm cho họ đần độn thêm. Ngoài mục đích giáo dục để đào tạo tùy phái, thông ngôn và viên chức nhỏ đủ số cần thiết phục vụ cho bọn xâm lược - người ta đã gieo rắc một nền giáo dục đồi bại, xảo trá và nguy hiểm hơn cả sự dốt nát nữa, vì một nền giáo dục như vậy chỉ làm hư hỏng mất tính nết của người đi học, chỉ dạy cho họ một lòng "trung thực" giả dối, chỉ dạy cho họ biết sùng bái những kẻ mạnh hơn mình, dạy cho thanh niên yêu một Tổ quốc không phải là Tổ quốc của mình và đang áp bức mình. Nền giáo dục ấy dạy cho thanh thiếu niên khinh rẻ nguồn gốc dòng giống mình. Nó làm cho thanh thiếu niên trở nên ngu ngốc. Điều gì có thể rèn luyện được cho học sinh biết suy nghĩ, biết phân tích thì người ta không dạy ở nhà trường. Vấn đề nào có liên quan đến chính trị, xã hội và có thể làm cho người ta tỉnh ngộ đều bị bóp méo và xuyên tạc đi. Có học lịch sử nước Pháp đi nữa, thì người ta không hề đả động đến chương nói về cách mạng. Người ta cấm học sinh đọc tác phẩm của Huygô, Rútxô và Môngtexkiơ. Nói tóm lại, trường học thật là tương xứng với chế độ đã khai sinh ra nó"(19).
3. Vì lợi ích trăm năm phải trồng người
Phê phán mạnh mẽ chính sách ngu dân và nền học vấn nô lệ của chế độ thực dân, Hồ Chí Minh đồng thời làm rõ vị trí, tầm quan trọng của giáo dục chân chính trong đời sống xã hội và nhất là trong xã hội mới.
Tầm quan trọng khái quát của giáo dục là cải tạo và phát triển con người. Hồ Chí Minh có thơ rằng: "Hiền dữ đâu phải là tính sẵn / Phần nhiều do giáo dục mà nên"(20).
Khi đất nước còn trong nô lệ, Hồ Chí Minh, một mặt đấu tranh để đòi quyền lợi học hành cho nhân dân; mặt khác, với tinh thần người cộng sản, người tích cực hướng tới cách mạng giải phóng dân tộc để xóa bỏ chế độ áp bức bóc lột, giành tự do cho nhân dân, trong đó có tự do học tập. Quá trình này, cũng từ tầm quan trọng của giáo dục, Người nhấn mạnh đến giáo dục phục vụ cách mạng. Đó là giáo dục cho nhân dân, cho các chiến sĩ cách mạng lòng yêu nước, tinh thần đấu tranh chống áp bức, bóc lột; giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và lịch sử vẻ vang của dân tộc, lịch sử cách mạng thế giới...
Bản thân Hồ Chí Minh và những thanh niên yêu nước đã sang học tập tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô). Người đã viết nhiều sách báo để tuyên truyền cách mạng trong nhân dân, mở lớp học lý luận cho thanh niên yêu nước Việt Nam tại Quảng Châu (Trung Quốc)...
Khi cách mạng thành công, trong buổi họp đầu tiên của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (3-9-1945), Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Chúng ta có nhiệm vụ cấp bách là phải giáo dục lại nhân dân chúng ta. Chúng ta phải làm cho dân tộc chúng ta trở nên một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập"(21). Và ngay sau đó ít ngày, trong buổi khai trường đầu tiên của nền giáo dục mới, Hồ Chí Minh đã có câu nói nổi tiếng về vị trí, tầm quan trọng của giáo dục và của thế hệ trẻ Việt Nam: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em"(22).
Ngay trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại, đường lối cách mạng Việt Nam là vừa kháng chiến vừa kiến quốc và trong kiến quốc, giáo dục là một mặt cơ bản, cấp thiết. Hồ Chí Minh viết: "Chúng ta cần nhất bây giờ là: Kiến thiết ngoại giao / Kiến thiết kinh tế / Kiết thiết quân sự / Kiến thiết giáo dục"(23) và "Chúng ta phải thực hiện ngay: 1) Làm cho dân có ăn. 2) Làm cho dân có mặc. 3) Làm cho dân có chỗ ở. 4) Làm cho dân có học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là 4 điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập"(24).
Sau khi kháng chiến thành công, miền Bắc bước vào xây dựng xã hội mới, giáo dục càng có tầm quan trọng đặc biệt không chỉ cho hiện tại mà cả cho tương lai. Hồ Chí Minh có câu nói bất hủ về sự nghiệp giáo dục - "trồng người" rằng: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người"(25).
Trong xã hội mới, theo Hồ Chí Minh, sự nghiệp "trồng người" quan trọng đối với mọi tầng lớp, bộ phận xã hội. Trước hết, giáo dục phải hướng vào thế hệ trẻ - "mùa Xuân của xã hội"(26). "Công việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hay kém" cho nên phải: "Huấn luyện cán bộ", "dạy cán bộ và dùng cán bộ"(27). "Quân nhân phải biết võ, phải biết văn, võ là như tay phải, văn là như tay trái của quân nhân. Biết võ, biết văn, mới là quân nhân hoàn toàn. Muốn biết thì phải thi đua học"(28)...
Như đã nói, tầm quan trọng khái quát của giáo dục là cải tạo và phát triển con người. Cũng tinh thần này, Hồ Chí Minh mở rộng hơn đem lại ý nghĩa thời đại lớn lao cho giáo dục là: "Học để làm việc/ làm người/ làm cán bộ/ Học để phụng sự Đoàn thể, "giai cấp và nhân dân/ Tổ quốc và nhân loại"(29). Vào năm 1961 thật cảm động, Người chân thành rằng; "Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học. Việc lớn, việc nhỏ, tôi phải tham gia. Công việc cứ tiến mãi. Không học thì không theo kịp, công việc nó sẽ gạt mình lại phía sau"(30).
4. Những quan điểm cơ bản xây dựng và phát triển nền giáo dục mới
Quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là giai đoạn trực tiếp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm cơ bản xây dựng và phát triển nền giáo dục mới.
- Về mục đích giáo dục: "... Một nền giáo dục nó sẽ tạo ra các em nên những công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em"(31), "Trường học của chúng ta là trường học của chế độ dân chủ nhân dân, nhằm mục đích đào tạo những công dân và cán bộ tốt, những người chủ tương lai tốt của nước nhà"(32).
- Mục đích trên chính là đào tạo con người phát triển toàn diện vì một nước Việt Nam dân chủ và xã hội chủ nghĩa, cho nên, nền giáo dục mới phải là nền giáo dục toàn dân - cho mọi người dân và động viên đông đảo nhân dân tham gia. Tinh thần này đã được thể hiện ngay từ những năm tháng đầu tiên của nền giáo dục mới, trong lời kêu gọi xóa nạn mù chữ của Hồ Chí Minh: "Những người chưa biết chữ gắng sức học cho biết đi. Vợ chưa biết thì chồng bảo, em chưa biết chữ thì anh bảo, cha mẹ không biết thì con bảo, người ăn người làm không biết thì chủ nhà bảo, các người giàu có thì mở lớp học ở tư gia dạy cho những người không biết chữ ở hàng xóm láng giềng, các chủ ấp, chủ đồn điền, chủ hầm mỏ, nhà máy thì mở lớp học cho những tá điền, những người làm của mình"(33). Sau này, khi bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Người nhấn mạnh (viết chữ in): "Giáo dục các em là việc CHUNG của gia đình, trường học và xã hội. Bố mẹ, thầy giáo và người lớn phải cùng nhau phụ trách; trước hết là phải làm gương mẫu cho các em trước mọi việc"(34).
- Để phát triển con người toàn diện, có những công dân mới, nội dung của nền giáo dục mới phải mang tính toàn diện: "Trong giáo dục không những phải có tri thức phổ thông mà phải có đạo đức cách mạng. Có tài có đức. Có tài không có đức, tham ô hủ hóa có hại cho nước. Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai"(35).
Giáo dục toàn diện, nhưng ở từng cấp học phải cụ thể hóa cho thích hợp. Hồ Chí Minh đưa ra những gợi ý: "- Đại học thì cần kết hợp lý luận khoa học với thực hành, ra sức học tập lý luận và khoa học tiên tiến của các nước bạn, kết hợp với thực tiễn của nước ta, để thiết thực giúp ích cho công cuộc xây dựng nước nhà.
- Trung học thì cần đảm bảo cho học trò những tri thức phổ thông chắc chắn, thiết thực, thích hợp với nhu cầu và tiền đồ xây dựng nước nhà, bỏ những phần nào không cần thiết cho đời sống thực tế.
- Tiểu học thì cần giáo dục các cháu thiếu nhi: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu khoa học, trọng của công. Cách dạy phải nhẹ nhàng và vui vẻ, chớ gò ép thiếu nhi vào khuôn khổ của người lớn. Phải đặc biệt chú ý giữ gìn sức khỏe của các cháu.
Tôi cũng mong các gia đình liên lạc chặt chẽ với nhà trường, giúp nhà trường giáo dục và khuyến khích con em chăm chỉ học tập, sinh hoạt lành mạnh và hăng hái giúp ích nhân dân"(36).
- Giáo dục toàn dân, toàn diện thì đồng thời việc dạy và học phải là suốt đời. Đây là tinh thần của thời đại hiện nay, nhưng đã được Hồ Chí Minh nêu lên rất sớm (năm 1950). Người nói: "- Người huấn luyện phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình. Lênin khuyên chúng ta: "Học, học nữa, học mãi". Mỗi người đều phải ghi nhớ và thực hành điều đó, những người huấn luyện lại càng phải ghi nhớ hơn ai hết. Người huấn luyện nào tự cho là mình đã biết đủ cả rồi, thì người đó dốt nhất. Khẩu hiệu "Học không biết chán, dạy không biết mỏi" treo trong phòng họp chính là của Khổng Tử. Tuy Khổng Tử là phong kiến và tuy trong học thuyết của Khổng Tử có nhiều điều không đúng song những điều hay trong đó thì chúng ta nên học.
"Chỉ có những người cách mạng chân chính mới thu hái được những điều hiểu biết quý báu của các đời trước để lại". Lênin dạy chúng ta như vậy"(37).
- Sau nữa, Hồ Chí Minh đã nêu lên những quan điểm khoa học mang tính nguyên tắc, phương châm của xây dựng và phát triển nền giáo dục mới.
+ "Học tập thì theo nguyên tắc kinh nghiệm và thực tế phải đi cùng nhau”(38). Tinh thần của nguyên tắc này - học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế - được Hồ Chí Minh nhiều lần nhắc nhở.
+ "Học tập ở trường của Đoàn thể không phải như học ở các trường lối cũ, không phải có thầy thì học, thầy không đến thì đùa. Phải biết tự động học tập" và "Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân, không học nhân dân là một thiếu sót rất lớn"(39). Đó chính là phương châm kết hợp giữa đào tạo và tự đào tạo mà ngày nay nền giáo dục hiện nay lên thành triết lý.
+ Dân chủ trong giáo dục là nét bản chất của nền giáo dục mới. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là "cá đối bằng đầu". Đồng thời thầy và trò cần giúp đỡ những anh chị em phục vụ cho nhà trường. Các anh chị em nhân viên thì nên thi đua sao cho cơm lành canh ngon để cho học sinh ăn no, học tốt"(40).
+ Dân chủ làm cơ sở, đồng thời phải đoàn kết rộng: "Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa trò và trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó"(41).
+ Đoàn kết tạo nên sức mạnh, động viên mọi lực lượng, nguồn lực cho giáo dục: "Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục của ta lên những bước phát triển mới"(42).
5. Thầy, cô giáo - những anh hùng vô danh
Sự nghiệp giáo dục là của toàn dân, nhưng trước hết là của các cơ quan, tổ chức được trực tiếp làm công tác quản lý giáo dục và giảng dạy, trong đó đặc biệt là: Các thầy cô giáo. Hồ Chủ tịch dành những lời thân ái nhất nói về người thầy: "... Có gì vẻ vang hơn là nghề đào tạo những thế hệ sau này tích cực góp phần xây dựng chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản? Người thầy giáo tốt - thầy giáo xứng đáng là thầy giáo - là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không đăng trên báo, không được thưởng huân chương, song những người thầy giáo tốt là những anh hùng vô danh. Đây là một điều rất vẻ vang. Nếu không có thầy giáo dạy dỗ cho con em nhân dân, thì làm sao mà xây dựng chủ nghĩa xã hội được? Vì vậy nghề thầy giáo rất là quan trọng, rất là vẻ vang; ai có ý kiến không đúng về nghề thầy giáo, thì phải sửa chữa"(43).
Để xứng đáng với danh hiệu vẻ vang đó, thì: "Cô giáo, thầy giáo trong chế độ ta cần phải góp phần vào công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa. Phải có chí khí cao thượng, phải "tiên ưu hậu lạc" nghĩa là khó khăn thì phải chịu trước thiên hạ, sung sướng sau thiên hạ. Đây là đạo đức cách mạng"(44).
Người thầy quyết định nhất đến chất lượng giáo dục: "Học trò tốt hay xấu là do thầy giáo, cô giáo tốt hay xấu"(45). Người thầy phải giảng dạy theo mục đích, phương châm giáo dục mới, có phương pháp giảng dạy thích hợp: "Phải luôn luôn đặt câu hỏi: Dạy ai? Nói chung là học trò. Dạy để làm gì? Dạy cho nó yêu nước, yêu nhân dân, yêu lao động, yêu chủ nghĩa xã hội, hay đào tạo thành một lũ cao bồi. Lúc đó mới tìm cách dạy. Về cách dạy thì quần chúng công nhân, nông dân, trí thức có nhiều kinh nghiệm. Giáo viên nên khêu gợi những kinh nghiệm để tìm cách dạy tốt"(46).
Như vậy, trong nền giáo dục toàn diện, người thầy cũng phải thường xuyên trau dồi, học tập để vươn lên và gương mẫu về mọi mặt: "Giáo viên phải chú ý cả tài, cả đức, tài là văn hóa, chuyên môn, đức là chính trị", "Cho nên thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu, nhất là đối với trẻ em"(47).
Trong nền giáo dục mới, cả thầy và trò đều cần thi đua, vượt khó để dạy tốt học tốt: "Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật"(48)./.
PGS.TS Phan Thanh Khôi
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
(1)Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội (loại 12 tập), tập 4, tr.8.
(2)Sđd, tập 5, tr.379.
(3)Sđd, tập 8, tr.64.
(4)Sđd, tập 8, tr.141.
(5)Sđd, tập 1, tr.154.
(6)Sđd, tập 1, tr.64.
(7)Sđd, tập 3, tr.83.
(8)Sđd, tập 8, tr.65.
(9)Sđd, tập 1, tr.398.
(10)Sđd, tập 1, tr.398.
(11)Sđd, tập 4, tr.36.
(12)Sđd, tập 1, tr.22.
(13)Sđd, tập 1, tr.22.
(14)Sđd, tập 1, tr.154.
(15)Sđd, tập 1, tr.155.
(16)Sđd, tập 1, tr.22.
(17)Sđd, tập 1, tr.27.
(18)Sđd, tập 4, tr.32.
(19)Sđd, tập 1, tr.398-399.
(20)Sđd, tập 3, tr.383.
(21)Sđd, tập 4, tr.8.
(22)Sđd, tập 4, tr.33.
(23)Sđd, tập 4, tr.99.
(24)Sđd, tập 4, tr.152.
(25)Sđd, tập 9, tr.222.
(26)Sđd, tập 4, tr.94.
(27)Sđd, tập 5, tr.273.
(28)Sđd, tập 5, tr.558.
(29)Sđd, tập 5, tr.684.
(30)Sđd, tập 10, tr.465.
(31)Sđd, tập 4, tr.32.
(32)Sđd, tập 8, tr.80.
(33)Sđd, tập 4, tr.36-37.
(34)Sđd, tập 8, tr.74.
(35)Sđd, tập 8, tr.214.
(36)Sđd, tập 8, tr.80-81.
(37)Sđd, tập 6, tr.45.
(38)Sđd, tập 5, tr.269.
(39)Sđd, tập 6, tr.45, 50.
(40)Sđd, tập 7, tr.454.
(41)Sđd, tập 12, tr.403.
(42)Sđd, tập 12, tr.403.
(43)Sđd, tập 11, tr.331
(44)Sđd, tập 11, tr.332.
(45)Sđd, tập 9, tr.492.
(46)Sđd, tập 9, tr.493.
(47)Sđd, tập 9, tr.493.
(48)Sđd, tập 12, tr.403.