Tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh đề cập trong nhiều bài nói, bài viết, các văn kiện Đảng do Người chuẩn bị. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình đề cập đến vai trò, mục đích, nội dung, phương pháp, thái độ tự phê bình và phê bình, thái độ tiếp nhận phê bình để sửa chữa tiến bộ. Những tư tưởng của Người về tự phê bình và phê bình có ý nghĩa quan trọng và là biện pháp thiết thực để sửa đổi lối làm việc của cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình được quán triệt, thể hiện trong các văn kiện Đảng, các quy chế, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, đã được đưa vào quy chế lãnh đạo, quy chế hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp, được cán bộ, đảng viên chấp hành, góp phần quan trọng vào xây dựng Đảng ta vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, hoàn thành tốt vai trò lãnh đạo sự nghiệp cách mạng nước ta.Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong hoạt động lãnh đạo và công tác xây dựng Đảng của cán bộ, đảng viên vẫn còn nhiều hạn chế, khuyết điểm. Tình trạng nể nang, ngại phê bình, nhất là phê bình cấp trên; sợ mất uy tín cá nhân nên né tránh tự phê bình, tự phê bình hình thức, chiếu lệ. Chưa thực hiện tốt dân chủ trong tự phê bình và phê bình, dẫn đến tình trạng trong hội nghị thì không phát biểu, phê bình nhưng lại phát biểu bên ngoài cuộc họp, đơn thư nặc danh. Không ít trường hợp lợi dụng phê bình để đấu đá lẫn nhau, trù dập người phê bình. Phê bình và tự phê bình nhưng không tiếp thu, sửa chữa: Đó là một trong những nguyên nhân rất cơ bản dẫn đến những yếu kém, khuyết điểm trong công tác xây dựng Đảng.
Trong Văn kiệnĐại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảngđã đánh giá:“Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ và dân chủ hình thức”(1). “Không ít cơ sở đảng yếu kém, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu thấp, sinh hoạt đảng và quản lý đảng viên lỏng lẻo, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu”(2). Tại Đại hộiXI, với quan điểm đánh giá đúng sự thật, Đảng ta chỉ rõ: “Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”(3).
Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi “sửa đổi lối làm việc” của cán bộ, đảng viên không phải chỉ dừng lại ở việc sửa một vài biểu hiện hạn chế, khuyết điểm về phương pháp, tác phong công tác, mà là sửa những “căn bệnh” của cán bộ, đảng viên trong điều kiện Đảng cầm quyền, có căn nguyên từ những yếu kém về phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực công tác của cán bộ, đảng viên như: bệnh tham lam, bệnh lười biếng,bệnh kiêu ngạo,bệnh hiếu danh, bệnh thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh,vô thực”, bệnh kéo bè kéo cánh, bệnh cận thị,bệnh cá nhân. Để sửa đổi lối làm việc, cần thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, trong đó tự phê bình và phê bình là một biện pháp cơ bản, thường xuyên, hiệu quả.
Nói về vai trò của tự phê bình và phê bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:“Tự phê bình và phê bình là thứ vũ khí sắc bén nhất, nó giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh. Nhờ nó mà chúng ta sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, tiến bộ không ngừng”(4) “Cho nên đảng viên và cán bộ cần phải nâng cao giác ngộ tư tưởng ngăn ngừa tự đại tự cao, mạnh dạn công khai tự phê bình, vui vẻ tiếp thụ lời phê bình của người khác”(5). Người chỉ rõ: “Biết mình có khuyết điểm, nhưng không chịu cố gắng sửa đổi.
Những tật bệnh đó khiến cho Đảng xệch xoạc, ý kiến lung tung, kỷ luật lỏng lẻo, công việc bê trễ. Chính sách không thi hành được triệt để, Đảng xa rời dân chúng”(6). Người nhấn mạnh.“Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(7). Vì vậy, Người yêu cầu:“Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình.
Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán bộ ngày càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ngày càng phát triển” (8).
Theo Hồ Chí Minh, “Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Sợ phê bình, cũng như có bệnh mà giấu bệnh. Không dám uống thuốc. Để đến nỗi bệnh ngày càng nặng, không chết “cũng la lết quả dưa”….
Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình!” (9).
Chính vì thế, Người đòi hỏi: “Trong công tác, trong tranh đấu, trong huấn luyện, các đảng viên, các cán bộ, cần phải luôn luôn tự hỏi mình, tự kiểm điểm mình và đồng chí mình. Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi” (10).Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định rõ vai trò, tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong công tác xây dựng Đảng mà Người còn chỉ rõ mục đích tự phê bình và phê bình. “Mục đích phê bình cốt để giúp nhau sửa chữa, giúp nhau tiến bộ. Cốt để sửa đổi cách làm việc cho tốt hơn, đúng hơn. Cốt đoàn kết và thống nhất nội bộ” (11). Người chỉ rõ cách thức phê bình để đạt mục đích:
“Phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình.
Tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình.
Tự phê bình và phê bình phải đi đôi với nhau. Mục đích là cho mọi người học lẫn ưu điểm của nhau và giúp nhau chữa những khuyết điểm” (12).
Để tự phê bình và phê bình thiết thực, hiệu quả, đạt được mục đích đề ra,Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ phương pháp tự phê bình và phê bình. “Phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người” (13); và “Phê bình và tự phê bình phải thường xuyên, thiết thực, dân chủ, từ trên xuống và từ dưới lên… Làm được như thế thì khuyết điểm sẽ bớt, và tiến bộ sẽ mau” (14).
Để sửa chữa khuyết điểm, cán bộ, đảng viên “phải tự phê bình ráo riết, và phải lấy lòng thân ái, lấy lòng thành thật, mà ráo riết phê bình đồng chí mình. Hai việc đó phải đi đôi với nhau… Mỗi cán bộ, mỗi đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng” (15).
Một trong những phương pháp quan trọng của tự phê bình và phêbình theo Chủ tịch Hồ Chí Minh cán bộ, đảng viên phải phát huy dân chủ, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của cấp dưới, của quần chúng khắc phục tình trang: “Không phê bình trước mặt để nói sau lưng. Khi khai hội thì không nói, lúc khai hội xong rồi mới nói” (16). “Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác” (17).Người căn dặn“Cấp trên cũng nên thỉnh thoảng trưng cầu ý kiến phê bình của cấp dưới. “Có như thế thì cũng khác nào như một người có vết nhọ trên mặt, được người ta đem gương cho soi, mình tự thấy vết nhọ. Lúc đó không cần ai khuyên bảo, cũng tự vội vàng đi rửa mặt. Ta phải biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình, để tự mình sửa chữa” (18).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải có thái độ đúng đắn trong tự phê bình, tiếp thu phê bình của đồng chí, đồng đội để tiến bộ. Người viết: “Những người bị phê bình thì phải vui lòng nhận xét để sửa đổi, không nên vì bị phê bình mà nản chí, hoặc oán ghét” (19). “Đảng viên và cán bộ cần phải nâng cao giác ngộ tư tưởng ngăn ngừa tự đại tự cao, mạnh dạn công khai tự phê bình, vui vẻ tiếp thụ lời phê bình của người khác”(20). “Phê bình và tự phê bình như uống thuốc xổ. Xổ rồi thì phải uống thuốc bổ… Phê bình xong phải biết cách sửa chữa. Nếu phê bình rồi mà không biết cách sửa chữa là một khuyết điểm to”(21).
Như vậy, để “sửa đổi lối làm việc”, ngăn chặn, đẩy lùi khắc phục những yếu kém, khuyết điểm, những căn bệnh của Đảng cầm quyền, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần quán triệt và thực hiện đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình:
Một là, tiếp tục học tập, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày rất kỹ trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc” và nhiều bài nói, bài viết khác cũng như bằng chính tấm gương mẫu mực trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình được phổ biến rộng rãi, học tập, nghiên cứu trong Đảng. Tuy nhiên, giữa học tập quán triệt và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình vẫn còn một khoảng cách khá xa. Vì thế, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên của Đảng, không phân biệt cấp bậc, chức vụ, quyền hạn cần phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt để hiểu một cách thấu đáo, sâu sắc vai trò, mục đích, nội dung, phương pháp tự phê bình và phê bình… để từ đó vận dụng đúng đắn vào hoạt động lãnh đạo của cấp ủy, tổ chức đảng, vào trong thực tiễn công tác xây dựng Đảng, tránh những biểu hiện nhận thức sai trái, lệch lạc trong tự phê bình và phê bình mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán, cảnh báo trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”. Cùng với việc tham gia học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình do cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành, đội ngũ cán bộ đảng viên cần chủ động, kiên trì tự học tập, tự nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình để không ngừng trau dồi trình độ nhận thức lý luận, tri thức và kỹ năng tự phê bình và phê bình, làm cơ sở để tiến hành tự phê bình và phê bình mang lại chất lượng và hiệu quả thiết thực.
Hai là, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần nêu cao tính đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình.Đây là nội dung, biện pháp đặc biệt quan trọng trong thực hiện tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo cao cấp rất am hiểu lý luận xây dựng Đảng, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình; tuy nhiên trong thực tế kết quả đấu tranh tự phê bình và phê bình không tương xứng với trình độ trí tuệ và cương vị công tác. Nguyên nhân chính là do các đồng chí cán bộ, đảng viên đó chưa thực sự phát huy tốt tính Đảng, tính chiến đấu của mình trong tự phê bình và phê bình, do còn chịu sự tác động từ nhiều mối quan hệ, lợi ích nhóm, còn nể nang, ngại va chạm, còn mang nặng tư tưởng trung bình chủ nghĩa, “dễ người, dễ ta”, đoàn kết xuôi chiều…
Chính vì vậy, trên cơ sở nắm chắc nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải biết vượt lên trên những lợi ích cá nhân, những nhu cầu của cuộc sống đời thường, biết đặt lợi ích của Tổ quốc, của Đảng, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm… để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ, cương vị công tác được giao. Cán bộ cấp trên phải làm gương cho cấp dưới trong tự phê bình và phê bình, để cấp dưới học tập và noi theo.
Ba là, chấp hành nghiêm chế độ tự phê bình và phê bình theo quy định của Điều lệ Đảng. Tự phê bình và phê bình vừa là nguyên tắc, là quy luật, đồng thời là chế độ thường xuyên trong sinh hoạt đảng của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chế độ, nền nếp sinh hoạt đảng là môi trường, điều kiện để đội ngũ cán bộ, đảng viên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình, trong đó có tự phê bình và phê bình. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên cần tích cực, chủ động chấp hành đầy đủ, nghiêm túc các chế độ, nền nếp sinh hoạt của tổ chức đảng. Đặc biệt, là các hình thức sinh hoạt tự phê bình và phê bình theo chế độ định kỳ và đột xuất, trong đánh giá chất lượng tổ chức đảng và đảng viên; nhận xét, đánh giá cán bộ, trong bình xét khen thưởng, xét kỷ luật cán bộ. Khắc phục tình trạng ngại sinh hoạt tự phê bình và phê bình, vin lý do khách quan để không tham gia sinh hoạt tự phê bình và phê bình.
Bốn là, thực thà tự phê bình, nghiêm túc tiếp thu phê bình để sửa chữa tiến bộ. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng trong thực hiện tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu người cán bộ, đảng viên lại chỉ tập trung phê bình đồng chí, đồng đội mà không quan tâm đến tự phê bình mình, sợ mất sĩ diện, uy tín cá nhân nên không tự giác tự phê bình, hoặc tự phê bình mang tính hình thức, đối phó thì chất lượng tự phê bình và phê bình sẽ rất hạn chế. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực thà tự phê bình, thành tâm, thành khẩn tự phê bình trước cấp ủy tổ chức đảng cùng cấp, tự phê bình trước cấp dưới. Tự phê bình thẳng thắn, trung thực, nêu hết cả ưu điểm và hạn chế, khuyết điểm, nguyên nhân cả những ưu điểm và khuyết điểm. Tránh tình trạng bản kiểm điểm đảng viên, cán bộ chỉ thấy thành tích, không thấy hạn chế, khuyết điểm, không dám tự chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm, thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm của mình để sửa chữa tiến bộ.
Cùng với việc thực thà tự phê bình, cán bộ, đảng viên còn phải lắng nghe, trân trọng kiến phê bình của cấp dưới, ý kiến đóng góp, phê bình của quần chúng với một thái độ chân thành, cởi mở để sửa chữa khuyết điểm của bản thân, không tự kiêu, tự đại, không bảo thủ, tỏ thái độ hằn học với người góp ý, phê bình, trù dập người phê bình. Không tranh công, đổ lỗi, thành tích thì nhận về mình, khuyết điểm thì đổ do tập thể. Khi đã nhận thức được những hạn chế, khuyết điểm của mình cán bộ, đảng viên phải kiên quyết sửa chữa để tiến bộ. Vì vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt, thực hiện tự phê bình và phê bình theo tư tưởng Hồ Chí Minh, thiết thực sửa đổi lối làm việc, khắc phục những căn bệnh của Đảng cầm quyền, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XIII; Chỉ thị số 05 - CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”;Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” góp phần xây dựng Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam đi đến thành công ./.
Đại tá, PGS. TS Phạm Thanh Giang
Phó CNK – Học viện Chính trị
Chú thích:
(1), (2)Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.270, 271.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.175.
(4), (5), (20) Hồ Chí Minh,Toàn tập, Tập 9, Nxb. CTQG, H.2011, tr.521 - 522, 521-522, 521.
(6), (7), (8), (9), (10), (11), (12), (13), (15), (16), (17), (18), (19) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H.2011, tr.298, 301, 302, 301, 305, 272, 307, 272, 279, 298, 283, 284, 272.
(14), (21) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Nxb CTQG, H.2011, tr.34, 221.