Biên giới quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Xây dựng biên giới quốc gia hòa bình, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên, nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa. Xuyên suốt quá trình hình thành, chiến đấu, xây dựng, phát triển của Quân đội nhân dân Việt Nam và Bộ đội Biên phòng, tư tưởng Hồ Chí Minh là một kho tàng lý luận vô giá, là tấm gương mẫu mực đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ trên mọi lĩnh vực công tác. Giáo dục và nâng cao nhận thức đối với nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cần thiết, có ý nghĩa lâu dài.

Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) - những chiến sĩ mang quân hàm xanh đã luôn nhận được những tình cảm ưu ái đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và luôn ghi nhớ, thực hiện những lời dạy của Người, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Là lực lượng “chuyên trách bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới, trực tiếp đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn của địch, giữ gìn an ninh trật tự ở biên giới, biển đảo”(1), xác định công tác biên phòng là công tác vô cùng quan trọng, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Đoàn kết nội bộ, đoàn kết các lực lượng, đoàn kết quân dân, xây dựng Bộ đội Biên phòng vững mạnh toàn diện; đặc biệt, ở những nơi đồng bào thiểu số, phải luôn giúp đỡ, giáo dục đồng bào, làm cho đồng bào tin yêu cán bộ thì đồng bào sẽ luôn hết sức giúp đỡ, có khi hi sinh cho ta. Đối với những đơn vị biên phòng hay ở các đảo việc ấy lại càng phải hết sức chú ý…” và được khái quát qua 8 câu: “Đoàn kết, cảnh giác/Liêm, chính, kiệm, cần/Hoàn thành nhiệm vụ/Khắc phục khó khăn/Dũng cảm trước địch/Vì nước quên thân/Trung thành với Đảng/Tận tụy với dân”(2). Những lời dạy của Người đã trở thành kim chỉ nam, là nền tảng, động lực dẫn đường, chỉ lối cho Bộ đội Biên phòng vượt qua mọi gian lao thử thách.

Trải qua 64 năm xây dựng, chiến đấu, công tác và trưởng thành, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng luôn khắc ghi những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thường xuyên quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị trong toàn lực lượng thực hiện nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia và đạt được nhiều thành tựu nổi bật qua các giai đoạn lịch sử, cụ thể:

Trong giai đoạn đất nước có chiến tranh (1954 - 1975), Công an nhân dân vũ trang đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ biên giới, bờ biển miền Bắc, giới tuyến quân sự tạm thời và các mục tiêu quan trọng trong nội địa của 33 khu, tỉnh thành. Trung đoàn 600 mang biệt danh “Đoàn Tân Trào”, từ năm 1954 - 1958 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng, các cơ quan đầu não của Đảng, các cơ quan ngoại giao và các đoàn khách quốc tế. Các chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang bảo vệ Phủ Chủ tịch đeo quân hàm, cấp hiệu, phù hiệu mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất hài lòng và khen: “Quân hàm mới màu xanh đẹp và dễ coi đấy”. Tại Đại hội Thi đua toàn lực lượng Công an nhân dân vũ trang lần thứ nhất (năm 1962), Người yêu cầu Công an nhân dân vũ trang phát huy thành tích đã đạt được, phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao qua mấy câu thơ khái quát: “Non xanh nước biếc trùng trùng/Giữ gìn Tổ quốc, ta không ngại ngùng gian lao/Núi cao, sự nghiệp càng cao/Biển sâu, chí khí ta soi vào càng sâu/Thi đua ta quyết giật cờ đầu”(3) và tặng cờ Đơn vị Quyết thắng luân lưu cho các đơn vị cơ sở. Sự động viên khích lệ của Người đã tạo nên một phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp trong toàn lực lượng. Ở các địa bàn vùng sâu, vùng cao biên giới, cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang phát huy tinh thần chủ động, tự lực cánh sinh xây dựng đồn, trạm, vận động nhân dân khu vực biên giới dựng nhà, lập bản, định canh, định cư, xây dựng hợp tác xã, xây dựng đời sống mới, cảnh giác với những luận điệu của các thế lực thù địch, không tham gia phỉ,... Dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang, các đơn vị đã phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và chính quyền địa phương, tiến hành các biện pháp nghiệp vụ để tiễu phỉ, trừ gian, bắt gián điệp biệt kích, phá tan âm mưu gây bạo loạn ở các địa phương, kêu gọi hàng nghìn tên phỉ ra đầu thú trở về sinh sống với gia đình, bóc gỡ các tổ chức phản động đội lốt tôn giáo trên tuyếnbiển,... Hơn 3.000 cán bộ, chiến sĩ đã tình nguyện theo các đội trinh sát an ninh vũ trang lên đường vào Nam chiến đấu giải phóng quê hương. Hàng vạn cán bộ, chiến sĩ đã bám chốt, bám trận địa, theo sát mục tiêu để bảo vệ an toàn cho Trung ương Đảng, bảo vệ các mục tiêu trọng yếu, bắn rơi nhiều máy bay của Mỹ - Ngụy trong “Chiến tranh phá hoại” lần thứ nhất và lần thứ hai,... góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Hòa bình lập lại cho đến nay, từ thực tiễn chiến đấu, công tác, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng thường xuyên quán triệt nắm vững các quan điểm, đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết của Đảng, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị nghiên cứu nắm chắc tình hình các tuyến biên giới, biển, đảo; kịp thời tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, chính quyền địa phương đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia; kết quả nổi bật là:

Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai toàn diện các biện pháp công tác biên phòng, chủ động nắm chắc tình hình, xây dựng các phương án tác chiến bảo vệ biên giới từ sớm, từ xa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch hòng xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, chống phá cách mạng nước ta, không để bị động bất ngờ. Tăng cường lực lượng, phương tiện tổ chức tuần tra các dấu hiệu đường biên, mốc quốc giới, quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ; phối hợp với lực lượng bảo vệ biên giới nước láng giềng tuần tra, duy trì các hiệp định, quy chế quản lý biên giới vàphòng, chống dịch bệnh hiệu quả hai bên biên giới. Triển khai các biện pháp nghiệp vụ bám, nắm địa bàn, đối tượng, xây dựng các chuyên án, kế hoạch đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ gìn an ninh trật tự ở khu vực biên giới, không tạo thành điểm nóng trên biên giới; nâng cao hiệu quả công tác trinh sát biên phòng, công tác cửa khẩu và các mặt công tác khác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị Bộ đội Biên phòng làm tốt công tác tham mưu, phối hợp với các lực lượng triển khai phân giới, cắm mốc trên ba tuyến biên giới đất liền, góp phần hoàn thành công tác phân giới, cắm mốc biên giới Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Lào, xây dựng một đường biên giới rõ ràng, ổn định, hữu nghị, hợp tác và phát triển với các nước láng giềng;tham mưu và trực tiếp tham gia phân giới, cắm mốc, xây dựng các văn bản pháp lý hóa 84% kết quả phân giới, cắm mốc biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia.

Tích cực tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; đã tổ chức thực hiện nhiều chương trình, phong trào, mô hình, cuộc vận động giúp dân xóa đói, giảm nghèo, chăm lo sức khỏe cho nhân dân, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở khu vực biên giới có tính nhân văn và sức lan tỏa sâu rộng. Đã có nhiều phong trào, mô hình hay, cách làm sáng tạo do Bộ đội Biên phòng đề xuất và thực hiện bằng tất cả tình thương, trách nhiệm đối với đồng bào, đồng chí nơi biên giới, như: “Bộ đội Biên phòng chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Thầy giáo quân hàm xanh”, “Nâng bước em tới trường”, “Con nuôi đồn Biên phòng”, “Mái ấm và bò giống cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”,… góp phần tô thắm thêm phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới(4).

Quán triệt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đối ngoại, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng thường xuyên giáo dục cán bộ, chiến sĩ học tập và làm theo lời dạy của Người: “Việt Nam làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(5); đồng thời, lãnh đạo, chỉ đạo các đơn vị vận dụng nhuần nhuyễn vào thực tiễn quá trình thực hiện nhiệm vụ. Bộ đội Biên phòng tích cực, chủ động đổi mới công tác đối ngoại quốc phòng, đối ngoại biên phòng bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, như: hợp tác, giao lưu hữu nghị biên giới, các hoạt động đối ngoại biên phòng kết hợp với đối ngoại nhân dân, như: Giao lưu hữu nghị Quốc phòngbiên giới;Giao lưu Biên cương thắm tình hữu nghị; tổ chức ký kết nghĩa được 180 cặp/265 đồn, trạm biên phòng và 207 cụm bản dân cư hai bên biên giới,… qua đó, củng cố lòng tin, phối hợp giải quyết kịp thời, hiệu quả các vấn đề xảy ra trên biên giới, xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. 

Những năm tới, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, tạo ra cả thời cơ và thách thức đối với nước ta. Tình hình vi phạm chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo, nhất là trên Biển Đông, vùng biển Tây Nam và một số địa bàn chiến lược tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định; các loại tội phạm, nhất là tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, xuyên biên giới có chiều hướng gia tăng với những phương thức, thủ đoạn mới khó nhận diện; cùng với những thách thức an ninh phi truyền thống, như: biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,… đặt ra cho nhiệm vụ công tác biên phòng ngày càng toàn diện, nặng nề; Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòngtiếp tục phát huy những thành tích đã đạt được, thường xuyên giáo dục cán bộ, chiến sĩ nâng cao ý thức bảo vệ chủ quyền quốc gia, thực hiện có hiệu quả lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các mặt công tác:

Một là, quán triệt, nắm vững quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, biên phòng trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và Quân đội; “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, “Chiến lược Quốc phòng Việt Nam” và “Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia”. Chủ động nghiên cứu, phối hợp với các lực lượng nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình, kịp thời báo cáo đề xuất với Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng tham mưu với Đảng, Nhà nước ban hành, chỉ đạo thực hiện chính sách, pháp luật về biên phòng và xây dựng khu vực biên giới, xây dựng nền biên phòng toàn dân và thế trận biên phòng toàn dân vững mạnh.

Hai là, triển khai toàn diện, đồng bộ các biện pháp công tác biên phòng; tổ chức quản lý, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia. Kiểm tra, khảo sát đơn phương, song phương, đề nghị bổ sung, điều chỉnh 3 văn kiện pháp lý tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Trung Quốc. Phối hợp triển khai thực hiện 2văn kiện pháp lý và tham mưu, tham gia phân giới, cắm mốc giải quyết 16% khối lượng công việc còn lại tuyến biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia. Duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu và chuẩn bị lực lượng, phương tiện tham gia đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo; sẵn sàng tham gia phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh.

Ba là, chủ động nắm tình hình từ sớm, từ xa; kịp thời phát hiện âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của địch và các loại đối tượng; tham mưu chủ trương, đối sách, xây dựng phương án, kế hoạch đấu tranh, phòng chống hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, đấu tranh phòng, chống tội phạm, buôn lậu, gian lận thương mại. Quán triệt, thực hiện nghiêm các hiệp định, quy chế, thỏa thuận về cửa khẩu. Tham mưu, đề xuất Chính phủ sửa đổi, bổ sung, ban hành các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực xuất, nhập cảnh; đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác quản lý cửa khẩu, kiểm soát xuất, nhập cảnh theo hướng hiện đại tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.

Bốn là, đổi mới nội dung, hình thức hợp tác, các hoạt động giao lưu hữu nghị; nhân rộng mô hình kết nghĩa giữa lực lượng bảo vệ biên giới, cửa khẩu các địa phương và nhân dân hai bên biên giới; tăng cường hơn nữa tình đoàn kết, hữu nghị, hiểu biết, tin cậy và phối hợp giữa Bộ đội Biên phòng Việt Nam với lực lượng bảo vệ biên giới, cửa khẩu của các nước, góp phần nâng cao vị thế, uy tín của Việt Nam trong việc giải quyết những vấn đề chung; xây dựng lòng tin chiến lược, hướng đến hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.Tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế, lực lượng chức năng các nước nghiên cứu, phát hiện và đấu tranh phòng, chống các loại tội phạm công nghệ cao, xuyên quốc gia, xuyên biên giới.

Năm là, đẩy mạnh tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho nhân dân khu vực biên giới về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và các điều ước quốc tế có liên quan đến biên giới quốc gia; nhận thức đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá, hoạt động xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc. Chú trọng tham gia xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở ở khu vực biên giới vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Phát huy vai trò của cán bộ đồn biên phòng tham gia cấp ủy cấp huyện, xã biên giới; cán bộ tăng cường xã, đảng viên đồn biên phòng tham gia sinh hoạt chi bộ thôn, bản và phụ trách hộ gia đình ở khu vực biên giới.

Sáu là, xây dựng Bộ đội Biên phòngvững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia; thường xuyên xây dựng quyết tâm và định hướng hành động cho cán bộ, chiến sĩ Bộ đội Biên phòng, nhất là các lực lượng trực tiếp ngày đêm bám trụ hoạt động, canh giữ, bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới quốc gia. Đồng thời, bồi dưỡng phương pháp xử lý các tình huống nhạy cảm trên biên giới theo đúng tư tưởng chỉ đạo, bảo đảm linh hoạt, sáng tạo, sắc sảo, nhạy bén, kiên trì, thận trọng,... không bị rơi vào “bẫy” của đối phương; đoàn kết, cảnh giác; liêm, chính, kiệm, cần; hoàn thành nhiệm vụ; khắc phục khó khăn, dũng cảm trước địch, vì nước quên thân, trung thành với Đảng, tận tụy với dân để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; song, cũng sẵn sàng chiến đấu, chiến thắng trong mọi tình huống, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia./.

Chú thích:

(1) Bộ Chính trị, Nghị quyết 58/NQ-TW về thống nhất các đơn vị bộ đội quốc phòng đang làm công tác bảo vệ nội địa và biên phòng, ngày 19/11/1958.

(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 11, Sđd, tr. 251.

(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 13, Sđd, tr. 353.

(4) Bộ đội Biên phòng tăng cường 332 cán bộ cho các xã biên giới, 2.096 đảng viên đồn biên phòng về sinh hoạt tại 1.877 chi bộ thôn, bản biên giới; 9.661 cán bộ, đảng viên đồn biên phòng phụ trách 42.247 hộ gia đình; nhận đỡ đầu gần 3.000 cháu học sinh có hoàn cảnh khó khăn (trong đó có gần 200 cháu của Lào và Campuchia); nhận nuôi 355 cháu có hoàn cảnh khó khăn trong chương trình “Con nuôi đồn Biên phòng”.

(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Sđd, tr. 256.

Thiếu tướng Phùng Quốc Tuấn

Phó Chính ủy Bộ đội Biên phòng

Bài viết khác: