Thứ bảy, 21/12/2024

Chỉ mục bài viết

phan 6 anh 1

Đồng chí Thúy Bách kể lại trong hồi ký “Trong vùng núi đá Lam Sơn”

Hồi ấy, khoảng 3/1942, một ngày đẹp trời giữa mùa Xuân tôi trở về cơ quan vào lúc phải nấu bữa cơm chiều. Nhìn vào hang tôi thấy một người lạ có râu cằm. Vẻ ngồi, cách ăn mặc hệt người cán bộ Nùng. Đồng chí Vũ Anh đi vắng. Người cán bộ lạ ngồi nói chuyện với Vân Trình, trông như hai bố con. Sau khi chào qua, tôi quay sang hốc đá bên cạnh nhóm bếp nấu cơm. Đang bận tay làm, bỗng tôi thấy người cán bộ lạ đến ngồi bên tôi, hỏi chuyện xa, chuyện gần, chuyện làng xóm và gia đình, tay luôn giúp tôi đun củi. Sự quan tâm thăm hỏi và cử chỉ thân mật của người cán bộ mới đến khiến tôi có cảm tình ngay.

Nhìn kỹ, tôi thấy đồng chí có đôi mắt sáng, nét mặt xương xương, nói tiếng Nùng lơ lớ như người Nùng miền Hà Quảng, có râu cằm. Tôi nghĩ ngay đến “Đồng chí già” mà đồng chí Lã và Mã Sơn đã kể cho nghe.

Đến bữa cơm, tôi đơm cho Bác bát đầy. Bác bảo gạt cho bằng. Bát thứ hai, tôi đơm vơi xuống một chút, bác bảo tôi đơm cho bằng miệng. Ăn xong hai bát Bác buông đũa. Tôi định đơm nữa nhưng Bác không ăn. Thương Bác làm việc nhiều sức khỏe yếu, nhưng bữa sau khi Bác đi công tác vắng, tôi dành phần cơm cho Bác nhiều hơn. Lúc về Bác cũng chỉ ăn đúng hai bát cơm đầy bằng miệng bát. Tôi mời thêm, Bác nói: “Cơ quan ở bí mật, gặp nhiều khó khăn, chúng ta chưa thể ăn nhiều hơn”.

 Từ ngày sang ăn ở ngay bên nhà báo, Bác làm việc cả ngày. Nhưng đêm, Bác cũng không ngủ trọn giấc. Đến giờ ngủ, Bác giục Vân Trình và tôi đi ngủ. Vân Trình nằm trên một cái sàn riêng; tôi và Bác nằm chung sàn, mỗi người một tấm chiên. Nhà có ngõ gì đâu, thỉnh thoảng, trời mưa, tôi vẫn thấy vết chân hổ bằng cái bát to in trên đường lầy, tôi nằm mép giường ngoài, dành Bác nằm trong. Nhiều lần, trăng sáng nửa đêm, tôi thức giấc nhìn không thấy Bác đâu. Có ai đã đắp thêm lên người tôi một tấm chăn? Bác không ngủ, trở dậy làm việc từ lúc nào. Nhiều buổi sáng tinh mơ, bừng mắt dậy tôi cũng không thấy Bác. Dụi mắt nhìn ra ngoài hang, hình Bác đang in lên khoảng trời rạng nắng. Bác vung tay tập thể dục.

Ở gần Bác, tôi chăm chỉ hơn mọi khi. Đường xa, tôi không ngại; đường khó qua lại, tôi không phàn nàn. Cơ quan hết gạo, tôi đến trạm nhà Lén dưới chân núi. Cơ quan hết thức ăn, tôi lặn lội đi tới trạm nhà Sơn Tinh. Quần chúng mến cách mạng, ủng hộ nhiều. Nửa đêm giữa đường rừng, tôi gánh lợn trên vai: Nào gà, vịt, chanh quả, gạo... đi vun vút.

Cuộc sống trong rừng âm thầm, lạnh ngắt... Sang Xuân lá vàng rụng nốt chiếc cuối cùng, nhường cho đám lá mới non xanh mơn mởn.

Bác viết bài, Vân Trình cùng tôi lăn ru lô in báo. Khi một chữ bật lên, Vân Trình lại hí hoáy chữa. Tôi chắp tay ngồi chờ, mắt lim dim, đầu gật gật. Vân Trình bảo tôi đứng ra ngoài hang, đi lại một lúc cho tỉnh táo...

Biết tôi làm việc chăm chỉ, Bác không phê bình tôi ngủ gật, Bác thương tôi, không bao giờ trách móc một lời.

Lúc này thực dân Pháp vẫn tăng cường lùng sục cơ sở cách mạng tìm bắt cán bộ. Cường hào gian ác hống hách, nạt nộ, bóc lột nhân dân. Lòng căm thù trong nhân dân lên cao như ngọn lửa rừng ngày gặp gió. Hàng trăm báo cáo gửi đến xin cho khởi nghĩa.

Bác gọi các đồng chí Vũ Anh, Vân Trình và cả tôi nữa đặt vấn đề: Nên khởi nghĩa hay chưa?

Mọi người đều tham gia ý kiến. Bác lắng nghe hết ý kiến mọi người, cuối cùng Bác bảo:

Để khi Pháp thua Nhật, mình đánh lấy lại nước từ tay Nhật mới được.

Tối hôm qua, tôi cứ nghĩ mãi về ý kiến Bác và giữ lại câu kết luận cuốn Lịch sử nước ta diễn ca do Bác biết dùng để huấn luyện cán bộ hồi ở Pác Bó. Ở cuối quyển sách huấn luyện này, Bác viết:

“Chúng ta có hội Việt Minh

Đủ tài lãnh đạo chúng mình đấu tranh

Mai sau, sự nghiệp hoàn thành

Rõ tên Nam Việt rạng danh Lạc Hồng

Dân ta xin nhớ chữ đồng;

Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh !”

Đường liên lạc giữa cơ quan báo với cơ quan cách mạng ngày càng gặp khó khăn. Các đội quân tuần tiễu của Pháp đi luồn rừng, thỉnh thoảng cắt ngang đường liên lạc ấy. Pháp đặt thêm đồn lính ở Hào Lịch để có thể vây rừng một cách bất ngờ. Các đồn nhỏ của bang tá đặt khắp nơi, bao vây rừng núi Lam Sơn. Trước đây đi liên lạc nhiều ngày, nay tôi chỉ còn xuống phía trên núi nhà các đồng chí: Tòng Thàng, Cho The, Đáp Hải, Bích Long, Hoàng Nghiệp, Hoành Tấm Sơn, Nghi Dương, Xuân Hồng...

Ngày lại ngày, hết mùa chim queng quý gọi, sang mùa chim tìm cô gào; hết tiếng ve sầu than, lại đến mùa chim rừng ca hát...

Đế quốc càng đi lùng, tôi lại càng phải tích cực xuống làng, đến các cơ quan nghe ngóng tình hình hoạt động của địch. Cụ bà Xin, một bà lão bình thường trong làng Lam Sơn, nói với tôi:

Ông xã L. sáng nay nói bô bô với người nào ở giữa sân rằng: Đường từ mỏ nước Bó Thay lên hang núi bỏ thấy lâu nay không có nay tự nhiên thấy con đường mòn có dấu người qua lại. Nhất định có cộng sản ở hang ấy.

Tôi nghe mà giật mình. Nó nói đúng chỗ ở của ta. Cái tổ ấm của mình sắp bị kẻ ác phá...  Tôi vùng chạy theo đường tắt về hang Bó Thay, báo cáo lại với Bác. Chín giờ đêm hôm ấy, Bác gửi một thư theo đường dây bí mật vào Nguyên Bình. Chín giờ đêm hôm sau, đồng chí Xích Thắng được đoàn thể cử đến đón cơ quan báo Việt Nam Độc lập vào hang Lũng Dẻ mà (thuộc xã Minh Tâm, huyện Nguyên Bình) ở sườn bên kia dãy núi đá vôi Lam Sơn.

Tôi không được đi theo tòa báo nữa. Bác cho tôi ở lại vùng núi đá này trồng rau cải ở mãi sâu tít trong rừng thẳm. Khi ấy vào khoảng cuối tháng 6-1942.

Phiến đá litô, mực in, giấy bút, ru lô, của công, của riêng nằm gọn trên lưng hai đồng chí Vân Trình, Xích Thắng. Sau những cái bắt tay rất chặt, hai đồng chí mất hút trong đêm.

Ngay sau đó, tôi được theo Bác đến cơ quan tỉnh ủy. Trên đường rừng,  tôi hỏi bác:

- Cơ quan đã đi, Bác còn trồng rau cải làm gì?

Bác hỏi lại tôi:

- Chúng ta đi được, đồng chí ở lại, đồng chí không ăn à? Lại còn cán bộ bí mật qua, nấu rau cải ăn chẳng đỡ đói hay sao?

Bác nghĩ xa quá. Giờ tôi mới hiểu ý Bác. Mấy ngày sau, Bác lại ra đi, mở tiếp cho xong lớp huấn luyện. Năm bẩy ngày sau nữa Bác mới vào hang Lũng Dẻ...

“Con đường dẫn tôi đến với Bác” - Đặng Văn Cáp kể

Tháng 3- 1942, Bác về Lam Sơn, tôi được giao trách nhiệm ở lại thu xếp một số công việc, thu xếp xong tôi theo Bác về Lam Sơn.

Lam Sơn cũng như nhiều vùng khác ở Cao Bằng, thung lũng lại ở giữa các rừng núi cao. Hòa An là một vùng đồng bằng, một vựa thóc của tỉnh, nhưng nơi đây thung lũng lại hẹp. Con sông Bằng Giang cách đó chừng dăm cây số án ngữ lối đi quan trọng ra vùng Nước Hai, thị trấn của huyện lị Hòa An và cũng là đồn binh trọng yếu của Pháp hồi đó. Thật là một địa thế tốt và hiểm trở.

Tôi vẫn được giao nhiệm vụ bảo vệ Bác và đi huấn luyện quân sự cho các lớp. Sau này khi Bác đi Trung Quốc rồi, do nhu cầu về vũ khí mà các đội vũ trang cấp bách đòi hỏi tôi được Tổng bộ Việt Minh giao thêm một trách nhiệm: Xây dựng “Xưởng vũ khí”. Xưởng nằm trong vùng Lũng Hoàng mà chúng tôi đã đổi tên là Lam Sơn.

Thực ra ý định lập “xưởng” này đã có từ lâu, hồi tôi còn ở Côn Minh, cùng với Bác. Hồi ấy, cứ sáng tập thể dục xong, lúc ngồi nghỉ, Bác thường bàn tình hình trong nước và thế giới. Một hôm Bác nói:

- Du kích phải tạo điều kiện mà đánh địch, cái gì đánh được giặc là phải dùng cả. Anh biết nghề rèn, Anh lên chú ý khi có gì phải rèn dao, mác cho du kích.

Tôi biết rèn dao mác và biết cả chữa súng nữa kia. Tôi nói với Bác như vậy vì hồi tôi ở cơ quan quân sự ở Quảng Đông tôi có tham gia việc chữa súng. Bản thân tôi là nông dân, vì bắt buộc phải kiếm sống cho nên tôi có biết qua nghề mộc, nghề rèn. Năm 1940, khi cùng ở với Bác tại Côn Minh, tôi đã làm thợ sắt, chính vì thế mà Bác mới gợi ý cho tôi như vậy.

Tôi đứng ra đảm nhận việc xây dựng “xưởng” sản xuất bộc phá, lựu đạn thô sơ, chữa súng và rèn dao, rèn mác. Bác gọi xưởng này là “nhà chữa súng”.

Vùng Lam Sơn này, sau Hội nghị Trung ương lần thứ Tám, trở thành trụ sở chính, nơi Bác qua lại chỉ đạo phong trào toàn quốc. Tờ Việt Lập sau những số đầu tiên được in ở Pác Bó, Khuổi Nậm, tiếp tục ra ở đây.

Nhà Bác ở là nhà một đồng bào Nùng, tức là cụ Lén, một nông dân nghèo. Sau nhà là dãy núi đá, hễ có động chỉ mấy bước chân là Bác có thể nấp vào hang hay thoát lên núi.

- Người nghèo là người bị áp bức - Bác thường nói: Những người rất toàn tâm với cách mạng. Chỉ cần biết cách tuyên truyền giáo dục họ.

Đúng vậy, sau này cả gia đình cụ Lén giác ngộ một lòng một dạ bảo vệ cách mạng, bảo vệ Bác kể cả những lúc nguy hiểm đến tính mạng. Cụ Lén, tên thực là Ma Văn Hán, trước kia là một người khó tính ít ai gần. Có lần cụ mang rau cải ra chợ bán, người mua lấy thêm một tàu cụ đuổi theo giằng cho kỳ được, tàu lá bị rách bươm ra cụ không bỏ. Một hôm cụ mang thịt đi bán, người mua chỉ bốc thêm một mẩu xương, cụ cũng giằng lại. Sau này, cụ giúp cho anh em cán bộ từng đùi thịt lợn, có anh em hỏi, cụ thủng thẳng đáp:

Trước kia tôi không đòi lại, người ta sẽ cho là mình dại, bây giờ ủng hộ cách mạng là giúp nước sao lại gọi là dại được?

Được gần Bác được Bác giáo dục, cụ Lén được kết nạp vào Đảng và tỏ ra rất kiên cường, mưu trí. Một hôm cụ đi liên lạc về thư còn trong túi thì địch ập đến. Biết là nguy nhưng cụ vẫn bình tĩnh thấy một con trâu cụ liền lùa nó xuống ruộng, rồi đuổi theo trâu xuống bùn. Nhân đó cụ dúi được lá thư xuống bùn. Đi hoạt động được một thời gian cụ bị bọn quan bắt. Bị tra tấn, kìm kẹp cụ không hề khai báo một câu nào. Địch không moi được gì, phải thả cụ ra. Về nhà cũ bị ốm liệt rồi chết. Bà cụ Lén cũng không kém gan góc như chồng. Tây bắt bà cụ lên tra tấn, bắt khai chỗ ở của con trai là anh Lén đi hoạt động cách mạng. Cụ cũng không hề nói.

…Cuộc sống của Bác, bao giờ cũng giản dị, vui tươi, Bác làm từ việc lớn như lãnh đạo cách mạng đến việc bình thường nhất như xay bột, giã gạo, vác gỗ...

Có lần Bác đang cầm dụng cụ trồng khoai môn trước cửa nhà thì chúng tôi vào, Bác liền cười nói:

- “Trồng môn trước cửa”, thử đối lại xem sao.

Câu đối cũng khá hóc búa vì “môn” tức là cửa, làm thế nào chọn được viết kia cho chọi.

- Bắt ốc sau nhà! - Chúng tôi cũng cười thưa lại, sau một lúc lâu suy nghĩ.

- Tạm cho là được! Bác lại cười một cách vui vẻ.

... Bác rất chú trọng đào tạo cán bộ cho phong trào cách mạng. Khi ở nước ngoài cũng như khi về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Bác đã đào tạo ra biết bao cán bộ ưu tú. Trong số 43 anh em đã được dự lớp huấn luyện ở lớp Nậm Quang cũng như các anh em Bác mới biết, Bác chú ý đến ba đồng chí Bình Dương, Bắc Vọng - tên thực là Hoàng Đức Thạc và sau đổi là Lã Minh Giang và Xích Thắng. Bác đã tìm được một địa điểm hẻo lánh, đặt là hang Lênin để huấn luyện thêm công tác đảng cho các đồng chí ấy. Trong đợt huấn luyện này lại có thêm một số đồng chí nữa được tham gia như đồng chí Cuông Tiên, đồng chí Quang Hưng...

Được Bác đặc biệt dìu dắt, các đồng chí nói trên đều trở thành những cán bộ cốt cán, sau này giữ những trọng trách của Đảng.

Xong những lớp huấn luyện này, Bác cho dời cơ quan đi Lũng Nặm vùng đồng bào Dao. Đến tháng 6-1942, Bác lại cho dọn lên núi, vùng Lũng Dẻ.

Thời gian này Bác có viết bài thơ Lên núi:

Lục nguyệt nhị thập tứ

Thướng đáo thử sơn lai.

Cử đầu hồng nhật cận,

Đối ngạn nhất chi mai.

Dịch thơ:

Hai mươi tư tháng sáu,

Lên ngọn núi này chơi.

Ngẩng đầu mặt trời đỏ,

Bên suối một nhành mài.

Đó là mấy câu thơ Bác làm rồi viết lên vách đá hồi ở Lũng Dẻ. Bác có một tâm hồn thơ dào dạt. Việc nước, công tác cách mạng, việc tham gia lao động hàng ngày, bao thứ bận rộn, nhưng gặp một cảnh đẹp, một ý thơ là Bác có ngay xúc cảm. Tiếc rằng nhiều khi Bác đọc lên không ghi chép, về sau không ai sưu tầm được.

Thời gian này Bác cũng sáng tác Bài ca sợi chỉ đăng trên báo Việt Nam Độc lập, số 122 là:

Mẹ tôi là một đoá hoa,

Thân tôi trong sạch, tôi là cái bông.

Xưa tôi yếu ớt vô cùng,

Ai vò cũng đứt, ai rung cũng rời.

Khi tôi đã thành chỉ rồi,

Cũng còn yếu lắm, ăn ngồi không ngon,

Mạnh gì sợi chỉ con con,

Khôn thiêng biết có vuông tròn cho chăng!

Càng dài lại càng mỏng manh,

Thế gian ai sợ chi anh chỉ xoàng!

Nhờ tôi có nhiều đồng bang,

Họp nhau sợi dọc, sợi ngang rất nhiều.

Dệt nên tấm vải mỹ miều,

Đã bền hơn lụa, lại điều hơn da

Đố ai bứt xé cho ra,

Đó là lực lượng, đó là vẻ vang.

***

Hỡi ai con cháu Hồng Bàng,

Chúng ta phải biết kết đoàn mau mau.

Yêu nhau xin nhớ lời nhau,

Việt Minh hội ấy mau mau phải vào.

Ở một địa thế có núi cao ở giữa từng mây đã trong hang lại lởm chởm, một hôm ngắm xung quanh Bác nói:

- Người Mán ở cao, ta lại ở cao hơn người Mán.

Một hôm khác, cơm đã dọn ra, tự nhiên một hòn đá từ trên cao rơi xuống đánh ầm một tiếng trước mặt chúng tôi, may không ai việc gì.

- Đây là một điềm tốt - Bác cười và nói.

Tuy nhiên, vì ở cao, mùa nắng khó có nước, chỗ này không thuận tiện, Bác lại cho dọn cơ quan đến Lũng Diên....

Bác Hồ đóng vai thầy mo

Tháng 5/1942, Bác đi họp tỉnh uỷ Cao Bằng, Bác đóng vai ông thầy mo kiêm thầy thuốc nhưng mà điếc. Đồng chí Thế Anh đóng vai đón ông thầy mo về chữa cho vợ bị ốm.

Lúc này, đồng chí Thế Anh mới chỉ biết Bác là ông Ké Thu. Bác nhờ tỉnh uỷ Cao Bằng chuẩn bị cho Bác một cuốn sách cúng, một cái thanh la, một con gà và mấy bao gạo nếp. Đồng chí Thế Anh đeo các bao gạo nếp. Bác đội nón Nùng, lấy khăn che râu, mặc bộ quần áo Nùng, tay chống gậy. Đến ngã ba Đôn Chương thì gặp bọn tổng đoàn và bọn lính gác. Bọn chúng hỏi:

- Đi đâu?

Đồng chí Thế Anh đáp:

- Đi đón ông Ké về chữa cho vợ đang bị bệnh phong.

- Tốt lắm. Về chữa cho vợ tao đang ốm nặng.

Như thế thì gay go rồi. Đồng chí Thế Anh nói đi nói lại với tụi nó:

Ông Ké này cũng xoàng thôi. Chỉ biết cúng có bệnh phong thôi, lại điếc nữa mà.

Nói mãi, chúng nó cũng nhượng bộ và nói rằng:

- Mày đi xong, chiều về nhớ cúng cho vợ tao.

Ông Ké quay lại cười. Đồng chí Thế Anh bực quá, đi một quãng xa, rồi quay lại phê bình ông Ké:

- Đã bảo là điếc rồi, mà ông Ké còn quay lại cười với nó. Làm vậy nó bắt thì làm sao?

- Nếu không cười thì nó bắt rồi. Điếc thì nó nói không nghe. Nhưng mình còn hệ thần kinh. Ông Ké giải thích, mình còn đi lại được, nó vỗ vào người phải biết. Chứ nó vỗ vào mà không đứng lên nó cho là điếc giả vờ, nó bắt rồi.

Đi một quãng, đồng chí Thế Anh lại ngạc nhiên khi nhìn hàm răng ông Ké trắng là thế, sao hôm nay lại bẩn vậy, Bác cười và nói:

- Chục, chục, cheng chong, xôi đầy, gà béo đưa cho thầy, thầy ăn. Ăn chưa hết nó còn dính như thế!

Bác đã lấy nhựa sung phơi khô tai tái rồi dí vào răng sau đó lấy xôi nhét vào. Lúc Bác cười, hạt xôi cứ rơi lả tả. Việc làm này của Bác càng làm cho chúng ta thấy rõ Bác đã chuẩn bị cải trang và giữ bí mật rất chu đáo./.

Đức Hiếu (Tổng hợp)


 

phan 11 anh
Bác Hồ ở Hang Bòng (Tân Trào, Sơn Dương)

Những lần gặp Bác – đồng chí Nguyễn Lương Bằng kể

… Mùa Hè năm 1945, chúng tôi lên Tân Trào. Tôi cùng đi với anh Trường Chinh, anh Hà Huy Giáp và một số đại biểu đi dự Đại hội Mặt trận. Đi trong Khu giải phóng, thở hít không khí tự do, thấy người nhẹ nhàng. Liên lạc dẫn chúng tôi tới một cơ quan. Chúng tôi thấy nhiều những anh chị em du kích, tự vệ, mang gươm, mang súng. Người thì đang làm nhiệm vụ canh gác, người đang họp bàn công tác. Từ người dân mất nước, trong tay không một tấc vũ khí, nay đứng trước quang cảnh ấy, cả Đoàn đại biểu đều cảm động, có người rưng rưng nước mắt. Tôi được tin Ông Cụ đã ở Tân Trào nên quên cả mỏi mệt, định tiếp tục đi ngay, vì từ cơ quan này sang cơ quan ấy cũng gần thôi. Nhưng một trận mưa to sập đến. Nước suối dâng lên, đường bị nghẽn. Chúng tôi đành phải nghỉ lại đây. Suốt đêm tôi thao thức. Hết nghĩ đến Ông Cụ, lại ngắm nhìn những đồng chí du kích bố trí bảo vệ Đoàn đại biểu. Lắng nghe thấy mấy đồng chí nói tiếng Tày (Cao Bằng), tôi nghĩ ngày mai vào gặp Ông Cụ, chỗ ở chắc là còn nghiêm mật hơn thế này.

Sớm hôm sau, cơm nước xong, chúng tôi vào Tân Trào. Tới nơi, anh Võ Nguyên Giáp cho chúng tôi biết Ông Cụ đang chờ nhưng ốm lắm. Mấy hôm trước bệnh tình có vẻ nguy kịch, tưởng chết. Ông Cụ đã một lần cho gọi anh Phạm Văn Đồng và anh Võ Nguyên Giáp vào bàn các công tác như có ý giối giăng. Rồi anh Giáp dẫn chúng tôi đến chỗ Bác ngay. Qua Cây đa Tân Trào, lặn lội một con suối tới chân đèo Nhe, đi sâu vào chừng vài trăm thước. Tôi tiến vào một nhà sàn thấp, ngạc nhiên vì thấy việc bảo vệ gần như không có. Trong nhà sàn bên cạnh, chỉ có mấy đồng chí phụ trách máy vô tuyến điện.  

Bước vào cái lều Bác ở, tôi rất cảm động. Nhà trống hơ trống hoác, bốn phía không có phên che. Ngoài chiếc máy đánh chữ và một ít giấy, không có một thứ đồ đạc gì khác. Bây giờ đã vào Thu, lại sau những trận mưa liên miên, khí trời lành lạnh. Ông Cụ ngồi xổm một mình trên sàn. Tôi nhận ra ngay Ông Cụ, nhưng Ông Cụ hom hem quá, khác hẳn đồng chí Vương hồi trước. Ông Cụ đã để râu, tóc lốm đốm bạc, hai má hóp lại. Đầu đội miếng vải túm tại như mũ nồi, mình mặc áo cộc chàm; hai chân gầy khẳng khiu làm cho hai ống quần soóc càng rộng. Chỉ có đôi mắt là vẫn sáng như xưa.

Chúng tôi hỏi thăm sức khỏe, hỏi về thuốc men, Bác nói:

- Có một bà con thiểu số ở đây vào rừng lấy thuốc lá về cho mình uống. Uống mấy hôm nay đã đỡ.

Bác bảo mọi người ngồi. Giọng nói không có gì đổi khác, vẫn từ tốn, đầm ấm như trước. Sau bao nhiêu năm bây giờ mới gặp lại Bác, tôi ngồi nghĩ liên miên, nghĩ chuyện ngày xưa, nhớ những lời Bác dặn dò, rồi tin Bác bị bắt, ho lao chết, rồi bây giờ không ngờ lại trở về đây. Hôm ấy tôi không nói được chuyện riêng với Bác. Chúng tôi vào thăm Bác và để bàn với Bác về công việc chuẩn bị Hội nghị Trung ương. Khi bàn công việc Bác vẫn minh mẫn, khẩn trương. Tôi nhớ khi ấy Thường vụ chưa ấn định dứt khoát ngày họp của Hội nghị Trung ương mở rộng. Bác nói:

- Nên họp ngay và cũng không nên kéo dài Hội nghị. Chúng ta cần tranh thủ từng giây, từng phút, tình hình sẽ biến chuyển nhanh chóng. Không thể để lỡ cơ hội.

Một mặt Thường vụ họp, một mặt Bác đề nghị một số đồng chí đi dự Hội nghị Trung ương phải về ngay địa phương, nắm lấy những ý kiến của Ban Thường vụ đem về mà thi hành. Ngày ấy, Nhật chưa đầu hàng Đồng minh. Bác nói: “Chỉ vài ngày nữa là nó hàng và hàng không điều kiện”. Vài hôm sau, trong khi Hội nghị Trung ương đang họp, chúng tôi được tin Phát xít Nhật đầu hàng.

Bác tuy ốm yếu nhưng dự họp suốt từ đầu tới cuối với Ban Thường vụ. Ngày 13,14, và 15 -8-1945, Hội nghị Trung ương lần thứ Chín họp. Những quyết định của Hội nghị này có một tầm quan trọng rất lớn đối với vận mạng của dân tộc ta.

Cuộc thảo luận ở Hội nghị Trung ương thật là sôi nổi và hào hứng. Bàn nhiều nhất là hai khả năng của cách mạng. Khả năng thứ nhất là ta lấy lại được nước, nắm được chính quyền, tức là có cương vị nói chuyện với Đồng minh.  Khả năng thứ hai là lực lượng của ta yếu không thừa được thời cơ thuận lợi mà giành lấy chính quyền trước khi Đồng minh kéo vào - mà Đồng minh là có Pháp ở trong - thì tức là phải đặt vấn đề đàm phán với Pháp, đòi hỏi quyền tự do, dân chủ, lắm lấy đấy mà tuyên truyền, giác ngộ quần chúng nhân dân, đẩy mạnh phong trào cách mạng hơn nữa để tiếp tục đấu tranh với Pháp cho đến thắng lợi cuối cùng.

Tôi nhớ khi bàn đến khả năng Pháp có thể trở lại, có đồng chí uất quá nói: Nó vào thì cứ đánh, dù lực lượng nhỏ đến đâu cũng đánh. Đây là những lời tâm huyết, biểu lộ một tấm lòng nhiệt tình yêu nước. Nhưng khách quan mà nhìn nhận vấn đề thì đánh Pháp lúc ấy phức tạp là vì nó núp sau danh nghĩa Đồng minh.

Vì điều kiện sức khỏe, Bác không dự Hội nghị Trung ương được suốt. Nhưng Bác góp rất nhiều ý kiến. Bác rất sáng suốt và bình tĩnh. Bác phân tích tình hình một cách rõ ràng và khoa học. Bác nhận định cách mạng là một cuộc đấu tranh lâu dài, làm cách mạng phải chiến đấu hết keo này đến keo khác. Trước mắt là phải nỗ lực phát động một cao trào khởi nghĩa, đã có khu giải phóng rồi phải mở rộng khu giải phóng ra khắp nơi trong nước, dù lực lượng còn nhỏ cũng lập khu giải phóng, trước khi Đồng minh vào. Tích cực thì nắm được thời cơ. Không tích cực thì thời cơ không chờ mình…

Hội nghị quyết định phát động một cao trào khởi nghĩa suốt từ Bắc chí Nam. Ai nấy đều bừng bừng phấn khởi… Một buổi tối, hình như sau cuộc họp của Ban Thường vụ thì phải, chúng tôi đốt đuốc vào thăm Bác. Tôi ngồi gần Bác, Bác đang nói chuyện với các anh ấy, bỗng nhìn tôi và nói:

- Trông chú già đi nhiều.

Tôi hỏi lại:

- Bác còn nhớ tôi cơ ạ?

- Nhớ chứ!

- Thưa Bác, trông Bác cũng già đi nhiều.

Tôi nhắc lại chuyện hồi ở tù đọc báo thấy tin Bác bị bắt, rồi tin Bác mất vì ho lao… Bác nói:

Đúng đấy. Hồi ấy, mình cũng đọc cái tin ấy. Thực dân Pháp thường đưa những tin như vậy để đánh vào tinh thần dân ta. Buồn cười là báo Anh bấy giờ lại đả thực dân Pháp là hèn nhát, không hãm hại được người ta thì lại phao tin người ta chết!

Tôi hỏi sao nó không làm án và Bác lại thoát được, Bác kể:

- Ngày ấy ở trong tù cũng chưa biết làm thế nào. Sau được biết có Cứu tế đỏ hết lòng giúp đỡ, lại có một thầy kiện người Anh cãi cho mình. Bọn cầm quyền Anh ở Hương Cảng không kết án được, nhưng lại ra lệnh trục xuất. Đấy là một mánh khóe thâm độc. Vì không được ở Hương Cảng thì phải xuống tàu, xuống tàu là lại sa vào tay bọn phản động Quốc dân đảng hoặc vào tay của thực dân Pháp. Và chỉ có tử hình thôi. Ông thầy kiện ấy rất tốt. Bà vợ cũng tốt. Hai vợ chồng thường vào nhà tù thăm mình, đem thức ăn, thức uống cho! Lúc đó khó khăn lại tìm cách che dấu. Sau ông ấy lại bố trí cho mình ra khỏi Hương Cảng trên một chiếc tàu.

Bác kể thêm rằng, giữa đường đi Thượng Hải, Bác ghé lên Hạ Môn để lẩn tránh, quanh quẩn ở đấy ngót năm, sáu tháng rồi tìm đường lên Thượng Hải bắt mối với Đảng Cộng sản Trung Quốc...

Những ngày đầu Bác ở Tân Trào - Lương Thị Khanh kể lại

….Vào một buổi sáng tháng 5 năm 1945, đồng chí Văn (tức Võ Nguyên Giáp) đến giao cho tôi nhiệm vụ nấu nước để tiếp bộ đội. Nhận việc, tôi nghĩ bộ đội hành quân xa vừa khát, vừa đói, nên tôi bàn với anh chị em nên nấu cháo loãng cho bộ đội ăn. Chiều đến. Xong việc, tôi tranh thủ rang ít chè vừa rang chè tôi vừa suy nghĩ về những công việc sắp tới của Hội Phụ nữ. Và sao gần chiều tối rồi mà vẫn chưa thấy bộ đội đến. Tôi nhìn ra ngoài sân bỗng thấy một đoàn người đi vào. Đi trước là một Ông Cụ già mặc quần áo người Nùng. Cụ đi giày vải, bước đi nhanh nhẹn. Đoàn người lên nhà tôi. Thấy tôi, Ông Cụ liền cất tiếng chào hỏi. Tôi đáp lại: “Bẩm ngài, không dám”. Ông Cụ liền nói: “Không phải bẩm ngài đâu, đồng chí ta cả, đi đánh Tây, đuổi Nhật thôi”.

Cơm nước đã sẵn sàng. Tôi đã dọn mâm lên, mời mọi người. Ông Cụ già cùng ngồi mâm với đồng chí Văn và mấy đồng chí khác nữa. Nghĩ đến người già, có tuổi, đi đường xa, tôi lấy mấy quả trứng gà đặt và mâm cơm và mời Cụ. Cụ liền từ chối: Gà đẻ ấp lấy con, sao lại đem mời chúng tôi. Thấy tôi mời mãi, Cụ đành nhận và mời mọi người cùng ăn.

Bữa cơm đơn giản đã xong. Mọi người ngồi quây quần uống nước, hỏi thăm chuyện gia đình và công tác của tôi. Đồng chí Văn giới thiệu cho tôi biết người ngồi cạnh Ông Cụ là đồng chí Đại Toàn: “Việc cần liên hệ với các đồng chí ở đây thì cứ trao đổi với Đại Toàn. Còn Ông Cụ già có vầng trán cao rộng, đôi mắt tinh anh, giọng nói ấm áp và rất đỗi hiền từ là ai, tôi không được biết. Song Ông Cụ là người có tuổi, mà vẫn tham gia cách mạng nên tôi rất tôn kính. Đối với các đồng chí khác, sự tôn kính còn được thể hiện trong mối quan hệ công tác.

Ông Cụ cùng đồng chí Đại Toàn và hai đồng chí nữa ở nhà tôi. Cụ mang theo một cái máy đánh chữ, hành lý của Cụ rất đơn giản. Các đồng chí khác có cả điện đài. Gia đình tôi dành cho Ông Cụ và các đồng chí một gian để làm việc và nghỉ ngơi.

Thời gian ở nhà tôi, Ông Cụ và các đồng chí đều ăn cơm chung với gia đình. Lúc đầu tôi còn sắp một mâm riêng cho Ông Cụ và các đồng chí. Nhưng Cụ nhất định không chịu và mời cả gia đình tôi ngồi chung. Ông Cụ ăn được ít cơm lắm, mỗi bữa cơm chỉ ăn được non hai lưng bát thôi. Ăn được ít, nhưng làm nhiều, tôi rất lo cho sức khỏe của Cụ. Ở nông thôn dạo ấy rau xanh rất hiếm. Thấy tôi băn khoăn, hiểu ý Ông Cụ liền hỏi:

- Nhà ta có vừng không? Có chè xanh không?

Tôi trả lời:

- Vừng cũng có, còn chè xanh thì nhiều lắm ạ.

Rồi Ông Cụ nói:

- Thế thì không lo. Ta dùng măng chấm muối vừng, dùng chè xanh nấu canh lấy nước chan cơm ăn thế là ngon rồi.

Ông Cụ còn vận động gia đình tôi trồng rau muống. Ông Cụ nói với nhà tôi (khi ấy là Chủ nhiệm Ban Việt Minh xã Tân Trào):

- Chủ nhiệm phải vận động bà con dù chạy giặc, nhưng cũng phải khẩn trương làm mùa không thì chết đói, cần trồng nhiều rau muống để ăn và nuôi bộ đội nữa. Sắp tới bộ đội sẽ còn về đông hơn.

Ở nhà tôi, Ông Cụ làm việc liên tục, rất ít khi nghỉ ngơi, thường thường cứ từ 4 giờ sáng là Ông Cụ dậy và đánh thức mọi người dậy tập thể dục. Ông Cụ rất năng tập thể dục buổi sáng. Tập xong Ông Cụ vào nhà lấy khăn ra khe suối rửa mặt, sau đó về nhà ngồi vào chỗ làm việc. Tôi thấy lúc thì Cụ đọc, khi thì viết, khi thì đánh máy, lúc thì hội ý… không phút nghỉ ngơi. Thấy vậy, tôi muốn đỡ việc giặt giũ cho Cụ. Tôi thưa chuyện đó với Đại Toàn. Nhưng Ông Cụ từ chối, vì Cụ không muốn làm phiền nhân dân. Hôm sau, tôi lại nói, lần này, Cụ không nỡ từ chối. Tôi đem áo của Cụ đi giặt sạch, phơi khô, rồi khâu vá lại những chỗ rách và đứt chỉ.

Làm việc suốt từ sáng đến trưa, cơm nước xong không nghỉ, Ông Cụ lại đi. Có lúc thì Ông Cụ đi dạo quanh làng một tí. Nhiều khi lại vào các gia đình để xem việc ăn uống và nghỉ ngơi của bộ đội. Khi quay về, Cụ lại tiếp tục ngồi vào chỗ làm việc cho đến lúc gia đình dọn cơm chiều. Trong ngày đó cũng có lúc Ông Cụ đi xem việc luyện tập của bộ đội. Có lần bộ đội đi lấy củi, có một số ít đồng chí không đi. Ông Cụ liền hỏi:

- Sao các đồng chí này không đi lấy củi?

Có đồng chí trả lời:

- Thưa cụ chúng cháu không có dao.

Ông Cụ liền nói:

- Không có dao thì lên rừng dùng tay bẻ, kéo, rút lấy ngày nắng phải đi lấy củi lúc mưa mới có đủ củi đun.

Tối đến Ông Cụ làm việc cho tới khuya mới chịu đi nghỉ.

Tuy bận việc nhiều, nhưng Ông Cụ vẫn dành thì giờ để nói chuyện với gia đình và bà con trong bản. Cụ thường gợi lên cảnh khổ của nhân dân ta dưới ách Nhật, Tây. Và người nêu lên muốn thoát khỏi vòng nô lệ của Nhật, Tây thì chỉ có cách là đứng lên đánh đuổi bọn chúng, để giành lấy độc lập, tự do.

Bộ đội đến đông. Để cung cấp đủ gạo cho bộ đội, tôi vận động chị em thanh niên tập trung đến nhà tôi xay giã hai ngày liền. Ông Cụ thấy chúng tôi xay giã như vậy, những lúc nghỉ ngơi, Cụ mời chị em lên nhà và hỏi chuyện:

- Chị em xay giã gạo để làm gì?

Chúng tôi trả lời:

- Để cho bộ đội ăn, đánh Tây, đuổi Nhật.

Ông cụ gật đầu và nói:

- Đúng xay giã gạo nuôi bộ đội cũng tức là chị em chúng ta đã tham gia đánh Tây, đuổi Nhật?

Mọi người sung sướng, cảm động trước những lời động viên của Ông Cụ. Chúng tôi không biết nói chuyện gì, chỉ nhìn Ông Cụ một cách trìu mến và kính trọng. Ông Cụ lại hỏi tiếp chúng tôi:

- Chị em có đồng bạc trắng thường giữ bằng cách nào để khỏi mất?

Có chị nói:

- Thưa Cụ cất vào hòm ạ.

Lại có chị nói:

- Thưa Cụ cất trong bao vải rồi buộc vào lưng ạ.

Ông Cụ cười nói:

- Các chị đều nói đúng cả, cất giấu bí mật cẩn thận như vậy thì đồng bạc trắng không sao mất đi đâu được. Bây giờ, cán bộ, bộ đội đến đông, chị em chúng ta phải giữ bí mật bảo vệ cán bộ, bộ đội như thế nào cho cẩn thận như cất giấu đồng bạc trắng vậy. Muốn thế, ai hỏi gì cũng ba không: “Không biết, không thấy, không nghe…”

Ông Cụ cười tươi, nhìn chúng tôi mà hỏi tiếp:

- Bây giờ ta có còn vua quan không?

Nghe Ông Cụ hỏi, tôi nhớ ngay đến câu nói của Ông Cụ hồi mới đến nhà tôi: “Không phải bẩm ngài đâu, đồng chí ta cả đi đánh Tây, đuổi Nhật thôi”. Tôi tự thấy mình chưa hiểu gì lắm về cách mạng. Là cán bộ trong Ban Chấp hành phụ nữ cứu quốc đấy, nhưng tôi chỉ biết làm những công việc cụ thể của đoàn thể thôi. Sự hiểu biết còn nông cạn và ấu trĩ. Tuy vậy, trả lời câu hỏi của Ông Cụ đối với tôi cũng không khó lắm. Được Ông Cụ khuyến khích, sau giây phút im lặng mọi người phát biểu sôi nổi. Chị thì nói rằng có, người nói rằng không…

Ông Cụ liền giảng giải:

- Ta bây giờ làm cách mạng, thay cũ đổi mới, sẽ không có vua, quan nữa, nhân dân ta tự làm chủ xã hội ta.

Rồi Cụ nói tiếp:

- Muốn vậy, chúng ta phải đoàn kết, cùng một lòng đánh đuổi giặc Nhật, ví như nhiều chiếc đũa nếu đem bó lại thì khó có thể bẻ gãy nhưng rời từng chiếc một thì rất dễ bẻ.

Được gần gũi Cụ, nghe Cụ giảng giải, tôi càng hiểu thêm nhiều điều mới lạ.

Tôi được đồng chí Lý (tức Kháng) giao nhiệm vụ quản lý và phân phát gạo cho các đơn vị bộ đội. Tôi không biết chữ, không thể ghi chép được. Tôi rất lo, sợ nhầm lẫn, nhưng cũng vui lòng nhận lời. Không có cân, tôi đong bằng ống. Tôi lấy một sợi lạt dài, cứ phát một ống, tôi lại gập một khúc lạt. Đồng chí Kháng trông thấy liền hỏi tôi: “Cái gì đấy chị”. Tôi nói: “Con số của em đấy”. Đồng chí phá lên cười. Tôi ngượng đỏ mặt và tủi cho mình vì không biết chữ nên phải làm như vậy.

- Phải đi học thôi chị ạ. Chiều nay chị đi vận động mọi người, nhất là chị em còn trẻ về đây họp để bàn về việc học tập văn hóa. Không có văn hóa, không có chữ thì làm việc gặp nhiều khó khăn lắm.

Nghe đồng chí Kháng nói, tôi cũng nghĩ như vậy, nhưng bây giờ nhiều tuổi rồi, không biết có học được không. Tôi hơi lo và nói ngay: “Học chữ khó lắm, em sợ không học được”.

Ông Cụ đang làm việc nghe thấy tôi nói vậy, Cụ nói luôn: “Học chữ dễ thôi. Đan dậu khó thế mà các chị còn đan được nữa là học chữ|”.

Tôi nói: “Thưa Cụ, nhưng mà đan dậu có hàng có lối của nó…”

Cụ nói tiếp: “Học chữ cũng như học đan dậu ấy, học vài hôm sẽ thấy hàng lối của nó. Phải học mới biết, không học thì biết làm sao được, là người cách mạng thì phải học”.

Được Ông Cụ dạy bảo, khuyên nhủ, được đồng chí Kháng giao nhiệm vụ, tôi vận động chị em về họp bàn việc học tập, có cách mạng chị em mới được đi học, ai cũng muốn học. Nhưng chỉ băn khoăn là nhiều tuổi rồi sợ không học được. Tôi nhắc lại lời dạy bảo của Ông Cụ, chị em thêm phấn khởi, tin tưởng và quyết tâm học. Hôm sau lớp học đã được khai giảng ở Nhà Cứu quốc, hơn 20 chị em đã vui vẻ đến lớp.

Nói đến việc học tập, Ông Cụ rất khéo động viên, dạy bảo. Một hôm, nhân lúc nghỉ ngơi Ông Cụ hỏi nhà tôi bao nhiêu tuổi rồi. Nhà tôi nói là 38 tuổi, tuy chưa già nhưng yếu.

Ông Cụ liền nói:

- Ông Chủ nhiệm chưa già đâu, còn khỏe lắm. Tôi nhiều tuổi hơn ông nhưng tôi còn làm cách mạng, còn phải học…Ông Chủ nhiệm này, càng già càng phải hăng hái tham gia mọi việc cách mạng: Phải học tập văn hóa, học kinh nghiệm công tác, học ở mọi người, mọi lứa tuổi để làm việc được tốt hơn, không khôn hết được đâu.

Rồi Ông Cụ cũng kể: Có một lần tôi đi công tác, dọc đường trời mưa đường trơn lầy lội. Ba em bé thấy tôi, chúng nói với nhau: “Chà ông già này trời mưa đường trơn mà không chống gậy, không sợ ngã nhỉ”. Từ đấy về sau khi trời mưa hoặc đường trơn lầy, tôi đều chống gậy, thấy dễ đi hơn và không ngã.

Cả nhà cười vang! Còn chúng tôi, rất thấm thía những lời dạy bảo của Ông Cụ.

Ông Cụ còn đưa giấy bút cho cháu Khoái - con trai duy nhất của hai vợ chồng tôi để đi học.

Ở nhà tôi được một thời gian ngắn thì Ông Cụ chuyển lên lán Nà Lừa. Gia đình tôi muốn giữ Ông Cụ ở lại, nhưng sinh hoạt ở trong bản và của gia đình tôi không tiện cho Cụ làm việc. Nhà tôi lại đông người ra vào, cũng có người biết được ở nhà tôi có Ông Cụ già mặc quần áo người Nùng, hiểu sâu biết rộng, được mọi người kính trọng nên tò mò đến thăm. Do vậy, tôi cũng không dám ngăn. Nhà tôi đã dẫn Ông Cụ cùng đồng chí Đại Toàn và bốn đồng chí nữa đi tìm khu đất và làm nhà cho Ông Cụ.

Nhà của Ông Cụ chỉ là một cái lán nhỏ rất đơn giản nhưng gọn gàng, xinh xắn, ở trên đồi Nà Lừa, gần suối nước không xa bản bao nhiêu.

Hôm ra đi, cháu Khoái cứ níu áo theo sau. Ông Cụ liền nói với tôi để cho cháu ra ở với Ông Cụ vài hôm cho vui. Tôi đồng ý, mà cũng không ngăn được, vì trẻ con được người già yêu thì nó cứ theo. Nhưng ở với Ông Cụ được hai buổi, nhớ tôi cháu lại về.

Tết tháng 5 đến (Tết Sâu bọ), nhà tôi làm bún, làm bánh, thịt gà... Tôi lên mời Cụ, nhưng Cụ bận việc không đến được. Hôm ấy tôi và cả cháu Khoái mang quà lên cho Cụ. Có người ở trong làng thấy vậy, cũng bắt con gà sống mang theo lên biếu Cụ. Ông cụ rất trân trọng tấm lòng của nhân dân, nhưng Cụ từ chối:

- Tôi có phải thầy cúng đâu mà mang gà sống lên. Ông mang về nhà đi.

Ở trên lán, tuy bận nhiều việc, nhưng thỉnh thoảng cũng vẫn ra ngoài bản thăm các gia đình, đi mừng đám cưới, xem việc luyện tập của bộ đội…

Nhân dân Tân Trào hăng hái tham gia mọi việc như khuân vác đồ đạc, vũ khí, ủng hộ bộ đội mọi mặt. Để động viên mọi người, Ông Cụ nhờ chị Minh Châu mang quà tặng của Ông Cụ cho bà con. Mỗi gia đình được một hộp cá hoặc hộp thịt, hay hột mứt... (những thứ đó do ta lấy được của một đơn vị quân Đồng minh thả dù xuống ngay khu vực Tân Trào). Các cháu nhỏ mỗi cháu được một cây bút chì hay quyển vở để đi học. Ông Cụ lên lán được một thời gian thì bị ốm, bị sốt cao… Được tin, nhà tôi liền ra tận ngòi Thia (gần xã Hồng Thái) lấy râu ngô về nấu nước cho Ông Cụ uống để giải nhiệt. Tôi giã ít ngô non vắt lấy nước cho cụ ăn, nhưng cụ ăn được rất ít. Trông người Cụ gầy đi nhiều. Tôi biết cụ ốm nặng, nhưng không có một thứ thuốc gì chữa cho Cụ được. Các đồng chí Văn, Đại Toàn hết sức lo lắng, tìm thuốc men để chạy chữa. Tôi lên thăm luôn, mang theo gạo để nấu cháo cho Cụ. Bệnh vẫn chưa đỡ, thấy tôi, Cụ gượng dậy bảo tôi hãy về nhà làm việc, đừng lo cho Cụ. Sức khỏe của Cụ dần dần được phục hồi. Ai cũng mừng cho Cụ.

Sau Đại hội Quốc dân ở ngoài Đình Tân Trào thì bộ đội ở trong làng cũng rút dần đi hết để tiến về tỉnh, về xuôi giành chính quyền. Đồng chí Văn và nhiều đồng chí cán bộ ở gần Ông Cụ cũng cũng đã đi. Vào một buổi chiều cuối tháng 8, Ông Cụ cho người xuống báo tin mời nhà tôi lên chơi. Sáng hôm sau Ông Cụ và các đồng chí đã ra đi…

Biết tin, tôi cứ bùi ngùi, nhớ thương, một con người đáng kính và hết lòng vì dân vì nước…

Đức Hiếu (Tổng hợp)
Còn nữa

Bài viết khác: