Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp Đoàn đại biểu Hội Trung - Việt hữu hảo do ông Dương Tú Phong, Ủy viên TƯ ĐCS Trung Quốc, Chủ tịch Hội Trung - Việt hữu hảo dẫn đầu sang thăm và dự lễ kỷ niệm Quốc khánh của Việt Nam, tại vườn hoa Phủ Chủ tịch ngày
30-8-1962 (ông Văn Trang là người đứng ở đầu hàng sau).
Ngày 17-5-1960, Bác đi thăm không chính thức Nam Ninh và nghỉ ngơi. Cùng đi có đồng chí Hà Vĩ, Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam. Ngày 19-5, tại Nam Ninh, buổi sáng Bác tiếp đoàn cán bộ Nam Ninh đến thăm và mừng sinh nhật Người. Buổi tối, đồng chí Vi Quốc Thanh mời cơm thân mật Bác.
Tháng 8-1960, Bác đi nghỉ ở Bắc Đới Hà, tỉnh Hà Bắc. Tại đây đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và một số cán bộ ra đón Bác về Nhà nghỉ, sau đó 5 ngày Bác rời Trung Quốc đi thăm Liên Xô. Sau 7 ngày ở thăm Liên Xô trở về Bắc Kinh, Thủ tướng Chu Ân Lai ra đón Bác. Buổi chiều Bác gặp gỡ các đồng chí lãnh đạo Trung Quốc. Buổi tối Người đến dự liên hoan ở Cung Văn hoá. Hôm sau Người rời Trung Quốc về nước.
Tháng 10-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Liên Xô nhân dịp kỷ niệm Cách mạng Tháng Mười. Trên đường về, từ Liên Xô quá cảnh ở Trung Quốc, các bác sĩ Trung Quốc đến thăm và kiểm tra sức khoẻ cho Người.
Trong thời gian ở thăm và nghỉ phép tại Trung Quốc, Bác đã đi thăm Khu tự trị Tân Cương, sau đó thăm thành phố Thanh Đảo, từ miền Đông Bắc ở phía Bắc đến Đảo Hải Nam ở phía Nam. Bác từng đi thăm nhiều danh lam thắng cảnh ở Trung Quốc, như phong cảnh sơn thủy Quế Lâm, rừng đá Lộ Nam ở Côn Minh; Tây Hồ ở Hàng Châu; Thái Hồ ở tỉnh Giang Tô; vườn tược ở Tô Châu; núi Nhạc Lộc ở Hồ Nam; núi Hoàng Sơn ở An Huy; Khổng Miếu ở Khúc Phụ (tỉnh Sơn Đông) và Vạn lý trường thành v.v…
Về địa điểm nghỉ phép, thông thường là Bác bàn định trước với đồng chí Đại sứ Trung Quốc tại Việt Nam. Chỉ có Thiều Sơn Xung (quê hương Mao Chủ tịch) và Diên An là do Bác tự mình nêu ra. Còn việc đi thăm Hoàng Sơn là Bác xem bộ phim (Hoàng Sơn) rồi quyết định. Sau năm 1960, Bác có nhiều lần sang Trung Quốc nghỉ phép thường là vào trung tuần tháng 5 đến trung tuần tháng 6 để tránh mừng thọ.
Tháng 5-1961, Người đi nghỉ ở Trung Quốc 15 ngày. Trước khi đi Bác gặp Đại sứ Trung Quốc Hà Vỹ. Đại sứ báo cáo và được Bác đồng ý về việc đón tiếp ở Trung Quốc. Ra đón Bác ở Quế Lâm có đồng chí Vi Quốc Thanh và một số cán bộ ở Bắc Kinh.
Ngày 14-5-1961, Bác nghỉ tại Quế Lâm 3 ngày. Ngày 17-5-1961, Bác rời Quế Lâm đi Nam Kinh, nghỉ ở Nam Kinh 3 hôm và đi thành phố Vô Tích rồi sau đó đi Hồ Nam, tại đây đồng chí Diệp Kiếm Anh ra đón Bác.
Ngày 23-5-1961, Bác rời Vô Tích đi Hồ Nam. Ngày 29-5-1961, 8 giờ sáng Bác rời Trường Sa (tỉnh Hồ Nam) và trở về Việt Nam, lúc 11h15 về đến sân bay Gia Lâm.
Từ tháng 5-1962 đến đầu tháng 6 Bác đi nghỉ ở một số địa phương của Trung Quốc. Tại Nam Ninh vợ chồng đồng chí Vi Quốc Thanh ra đón Bác. Hôm sau Bác đi Bắc Kinh, đón Người có đồng chí Lưu Thiếu Kỳ và Vương Quang Mỹ cùng các con đến thăm Người. Bác nghỉ ở Điếu Ngư Đài có các bác sĩ Tây y Trung Quốc đến kiểm tra sức khoẻ cho Người.
Ngày 4-6-1962, Bác rời Bắc Kinh đi Matxcơva.
Tháng 9-1963, Bác đi nghỉ tại Tùng Hoá (ngoại thành Quảng Châu). Hàng ngày bác sĩ Tây y đến khám và kiểm tra sức khoẻ cho Người và Bác mời cơm thân mật các bác sĩ. Ngày 15-5-1964, Bác đi máy bay từ Côn Minh về Quảng Châu và nghỉ ở Ôn Tuyền. Ngày 18-5-1964, bác sỹ Tây y đến khám bệnh và kiểm tra tim cho Bác.
Từ năm 1961 đến năm 1967, mỗi lần sang Trung Quốc nghỉ phép hoặc chữa bệnh, Bác đều gọi tôi cùng đi, thế là tôi được nhiều dịp tiếp xúc với Bác. Bác không coi tôi là người xa lạ. Trong thời gian nghỉ phép tại Trung Quốc (thường là 1 tháng), giờ giấc sinh hoạt của Bác rất đều đặn và có qui luật. Ngoài việc đi thăm các nơi, mỗi ngày Bác dậy lúc 6 giờ, đánh răng, rửa mặt xong, đi bách bộ. Đến 7 giờ ăn sáng xong, Bác về phòng nghỉ, mà thực ra là ngồi viết, hoặc xem những văn kiện do thư ký mang theo, hoặc những tài liệu sách báo do địa phương cung cấp. Chỉ có trong thời gian chữa mắt Bác mới để thư ký đọc văn kiện cho Bác nghe. Bác rất chú ý đọc những tờ báo và các tài liệu tham khảo bằng tiếng Trung Quốc, thấy chỗ nào quan trọng cần lưu trữ thì lấy bút đỏ đánh dấu trên bài.
1giờ rưỡi ăn cơm trưa xong Bác thường nghỉ một lát rồi xem sách báo. Việc ăn uống của Bác rất đơn giản, hoàn toàn không theo tiêu chuẩn khách quí. Bác có qui định mỗi bữa không được ăn hơn 3 món và một bát canh. Nhưng các nơi đều sắp xếp cho nhiều hơn ý Bác một chút để Bác có thể lựa chọn. Lúc thấy món ăn quá nhiều, Bác bảo tôi vào nhà bếp góp ý kiến, vừa dành ra một đĩa để lại nguyên vẹn. Bác nói: Để nguyên thế này tiện cho các đồng chí khác ăn. Bác còn qui định những món nào đã động tới là phải ăn cho hết, không được thừa lại. Nếu còn nhiều thì chia cho mọi người ăn hết. Bác thích ăn nhạt và không kén ăn, hay ăn ít ớt. Bác thích ăn nhất là món bít tết nửa chín nửa hồng. Trong thời gian nghỉ phép, lần nào Bác cũng phải đích thân bày cho anh thư ký tự làm ở nhà bếp, nhưng chỉ ăn có một lần thôi. Bác còn thích ăn “cháo cập đệ” và ăn cơm rang với trứng gà mang phong vị Quảng Đông. Bác không thích ăn hoa quả sống mà thích ăn táo nướng với bơ. Anh thư ký có mang theo cà phê Việt Nam với cốc lọc cà phê 2 tầng kiểu Pháp, khi cần thì pha bằng nước sôi để chảy nhỏ giọt xuống cốc. Bác uống rất ngon miệng. 5 giờ rưỡi Bác ăn cơm chiều. Sau bữa ăn, Bác nghỉ ngơi rồi đi bách bộ lần nữa. Buổi tối có lúc Bác dự biểu diễn văn nghệ hoặc xem phim, khoảng 9 giờ rưỡi Bác đi ngủ.
Bác thường gọi mỗi buổi sáng đi bách bộ là đi “trèo núi”. Miễn là xung quanh chỗ ở có núi, Bác đều phải đi bộ khoảng 5 km men theo đường mòn. Năm 1965 do chân Bác hơi yếu, Trung Quốc cử bác sĩ Tôn Chấn Hoàn sang Hà Nội chữa cho Bác bằng cách châm cứu và xoa bóp điểm huyệt, Bác thấy có đỡ hơn. Nhưng Bác vẫn tin chắc rằng rèn luyện bằng cách “trèo núi” vẫn có hiệu quả hơn.
Ở đằng sau khu “Tùng Viên” tại vùng suối nước nóng Tùng Hoá, núi dốc đường hẹp, nhưng Bác vẫn kiên trì trèo núi, mỗi ngày chọn một cây to hoặc một tảng đá ở phía trước làm mục tiêu để cố trèo tới nơi, rồi vừa nghỉ chân, vừa ngắm một lát thì quay trở về. Gặp chỗ hiểm trở, đồng chí cảnh vệ muốn đỡ Bác, nhưng Bác nhất định không chịu, cứ phải tự mình trèo từ từ. Trên đường, Bác chuyện trò niềm nở với các cháu thanh niên cùng đi.
Theo tôi quan sát, Bác kiên trì “trèo núi” như thế, có công hiệu cho việc chữa bệnh bị yếu chân thật.
Mỗi lần nghỉ phép đều có anh thư ký của Bác, bác sĩ bảo vệ sức khoẻ (một bác sĩ Việt Nam hoặc bác sĩ Văn Dĩnh Mai là bác sĩ bệnh viện Bắc Kinh - Trung Quốc) và tôi cùng ăn cơm với Bác. Bác không thích ăn cơm một mình, thích vừa dùng cơm vừa nói chuyện. Đó là quãng thời gian chuyện trò vui vẻ và sôi nổi nhất trong ngày.
Thông thường là tôi giới thiệu với Bác phát biểu một số nhận xét, hoặc nhân đó mà kể lại chuyện cổ tích, chuyện vui và chuyện từng trải… bầu không khí nhẹ nhàng và khoan khoái. Thỉnh thoảng tôi cũng có hỏi một vài câu hoặc trình bày nhận xét cá nhân. Có hỏi và có trả lời, thì Bác vui hơn, có lần sau khi nghe tôi phê phán gay gắt những người lãnh đạo của mấy Đảng xét lại hồi bấy giờ, Bác bình tĩnh nói: Chú quá “tả”.
Trong buổi ăn cơm, bác sĩ Văn Dĩnh Mai cũng hay phát biểu những ý kiến về chuyện ăn ở, ví dụ những người có tuổi nên ăn ít những món có nhiều chất cholesterol….
Nghe vậy, Bác cười nói: Tóm lại, phàm những thứ ngon miệng đều không được ăn cả.
Tháng 5-1966, Bác đi nghỉ ở Bắc Kinh. Các bác sĩ Trung Quốc đến kiểm tra mắt và khám sức khoẻ cho Bác. Ở Bắc Kinh vài ngày Bác đi Vô Tích, rồi Bác đến thăm “Thuyết Chính Viện” ở Tô Châu, gặp một đám đội viên thiếu niên tiền phong đang họp sinh hoạt đội trong một cái đình. Bác bèn bước đến nghe các cháu ca hát. Khi các cháu ấy nhận ra Bác Hồ, lập tức chạy đến vây quanh Bác chào hỏi. Một cháu quàng khăn đỏ mạnh dạn xin Bác kể chuyện về các bạn nhỏ Việt Nam. Bác đồng ý, rồi bảo tôi kể thay. Tôi kể lại câu chuyện về em Lê Văn Tám, anh hùng thiếu niên của Việt Nam đã tự tưới xăng lên mình rồi châm lửa xông vào kho đạn của địch để cùng chết với kẻ thù. Các cháu vỗ tay nhiệt liệt chào Bác. Bác nói:
- Hiện nay miền Nam Việt Nam còn chưa được giải phóng, các cháu ở bên ấy còn phải kề vai với các chú bác cùng chiến đấu. Sau này, khi miền Nam Việt Nam được giải phóng, thì các bạn nhỏ bên ấy cũng sẽ sống hạnh phúc như các cháu vậy. Bác mong các cháu làm cháu ngoan của Bác Mao. Đám thiếu nhi lại vỗ tay nhiệt liệt…
Năm 1965, Bác nghỉ phép ở Hoàng Sơn. Bể bơi suối nóng nằm ngay bên cạnh khách sạn nơi Bác ở, nhiệt độ nước trong bể có thể tuỳ ý điều hoà. Được biết đội bơi lội của thanh niên tỉnh An Huy đang huấn luyện ở đó, Bác đi thăm. Các cháu vận động viên đã nhận ra Bác ngay và vỗ tay hoan nghênh; sau đó anh em tổ chức riêng một buổi thi bơi thao diễn, Bác rất hào hứng xem hết cuộc thi, và khuyến khích các cháu cố sức tập luyện để giành tiến bộ to lớn hơn nữa. Ngày hôm sau, Bác không nén nổi, cũng xuống bể bơi một hồi. Bác bơi nghiêng, khá thành thạo. Bác đã 75 tuổi rồi mà vẫn bơi được như thế, thật không phải việc dễ, thế nhưng Bác vẫn tỏ vẻ không hài lòng về mình lắm:
- Sức kém rồi, không như trước kia nữa. Khi ở suối nóng Tùng Hoá, Bác từng đi bơi ở bể chứa nước ở gần đó. Tuy trời hơi rét và nước lành lạnh, Bác nhờ phao bơi trôi trên mặt nước khá lâu. Lên thuyền, tôi hỏi Bác có thấy lạnh không, Bác trả lời thản nhiên:
- Sợ rét thì đừng xuống bơi.
Trong thời gian nghỉ phép, Bác dứt khoát không cho chúc thọ. Tháng 5-1961, Bác đi thăm làng Thiều Sơn Xung, quê hương của Mao Chủ tịch. Hôm ghé qua Trường Sa đúng là ngày sinh của Bác, các đồng chí địa phương có bố trí bàn chúc thọ. Bác bước vào, chợt thấy cảnh đó, dừng ngay lại, vẻ ngạc nhiên, cố nói một cách dí dỏm: “Cái gì đấy, như tổ chức đám cưới” rồi nói nghiêm túc với các đồng chí phụ trách ở địa phương:
- Cũng như đồng chí Mao Trạch Đông, tôi phản đối chúc thọ. Các đồng chí làm thế này không đúng.
Ăn cơm xong, Bác tìm đến Đại sứ Hà Vỹ nhắc lại ý kiến đó. Đồng chí Hà Vỹ tỏ lời tiếp thu phê bình của Bác. Thủ tướng Chu Ân Lai được biết chuyện này, đã ra luôn chỉ thị: Cần phải tôn trọng ý kiến của Hồ Chủ tịch, đừng áp đặt cho Người. Từ đó về sau, mỗi khi đến ngày sinh của Bác, một số đồng chí lãnh đạo của Trung Quốc đến thăm Bác và cùng ăn một bữa cơm, nhưng không nói đến chuyện chúc thọ. Hai lần nhân ngày sinh của Bác năm 1965 và 1966, đều do Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, Thủ tướng Chu Ân Lai thiết tiệc nội bộ để khoản đãi Bác tại Bắc Kinh. Có một lần, các đồng chí Đặng Dĩnh Siêu (phu nhân đồng chí Lưu Thiếu Kỳ), v.v... đưa các con cháu đi thăm Bác, cuộc gặp mặt tràn đầy bầu không khí gia đình, Bác rất hài lòng.
Trong thời gian nghỉ phép, Bác rất chú ý tìm hiểu tại chỗ những kinh nghiệm thích hợp cho Việt Nam tham khảo. Bác từng cùng với đồng chí lãnh đạo của thành phố Quảng Châu bố trí ra ngoại ô thăm những thửa ruộng lúa đạt sản lượng cao, và tìm hiểu tỉ mỉ với bà con nông dân về các biện pháp tăng sản lượng, còn bảo anh thư ký ghi chép lại cẩn thận. Trên đường về, Bác nói với tôi:
- Những kinh nghiệm của Quảng Đông thích hợp với Việt Nam hơn.
Tôi cảm thấy, Bác Hồ coi việc nghỉ phép tại Trung Quốc là dịp để tiếp xúc mật thiết với những người lãnh đạo Trung Quốc, cũng là để tỏ tình đặc biệt hữu nghị với Trung Quốc.
Hồi ấy phong trào cộng sản quốc tế đang có bất đồng nghiêm trọng, những cuộc tranh luận rất gay gắt. Trong các trường hợp công khai, Bác giữ thái độ không thiên về bên nào giữa Trung Quốc và Liên Xô, nhưng trong các cuộc gặp mặt không chính thức vào thời gian nghỉ phép, Bác luôn luôn cố gắng tỏ rõ từ mặt chính diện về tình cảm đặc biệt đối với Trung Quốc. Bác trao đổi ý kiến với những người lãnh đạo Đảng và Nhà nước Trung Quốc, như các đồng chí Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình, Trần Nghị v.v.. về tình hình phong trào cộng sản quốc tế, cuộc đấu tranh ở miền Nam và công cuộc xây dựng ở miền Bắc Việt Nam, cũng như những tình hình hữu quan về Trung Quốc, v.v..
Tháng 5-1966, sau khi nghỉ ở Hoàng Sơn, trước khi lên đường đi thăm Diên An. Bác Hồ và Bác Mao gặp lại nhau ở Hàng Châu, lúc này sức khoẻ của Mao Chủ tịch đã hồi phục. Những vấn đề lớn cần giải quyết thì hai chủ tịch đã nói với nhau rồi, lần gặp mặt này không giới hạn một chủ đề chính nào, chủ yếu Mao Chủ tịch nói về chủ đề triết học, thời điểm đó phong trào cộng sản quốc tế đang chia rẽ lớn. Hồ Chủ tịch chủ trương phong trào cộng sản quốc tế và các nước xã hội chủ nghĩa phải giữ vững khối đoàn kết, và vì điều đó Người đã đích thân đến Bắc Kinh và Matxcơva trao đổi v.v.
Mao Chủ tịch đánh giá rất cao lời tuyên bố của Bác Hồ về quyết tâm kiên trì lâu dài cuộc đấu tranh chống Mỹ cho đến thắng lợi hoàn toàn được phát biểu vào ngày 8-12-1965, còn giới thiệu với Bác về tình hình cuộc đại cách mạng văn hoá Trung Quốc đang được triển khai. Nghe xong, Bác nói:
- Việt Nam không phải không có vấn đề, nhưng bây giờ vẫn còn phải làm cuộc đại cách mạng vũ hoá đã. Mao Chủ tịch cũng khẳng định:
- Việt Nam không thể làm cuộc đại cách mạng văn hoá được.
Trong chuyến đi nghỉ phép này, Bác ghé qua Hàng Châu gặp Mao Chủ tịch, rồi đi Bắc Kinh gặp Thủ tướng Chu Ân Lai và Chủ tịch Lưu Thiếu Kỳ, sau đó đi nghỉ một thời gian ở Đại Liên và Thanh Đảo, cuối cùng đi thăm Diên An.
Buổi chiều, máy bay riêng cỡ nhỏ đưa Bác đỗ xuống sân bay Diên An, được đồng chí Lý Ninh - con gái của đồng chí Lý Khắc Nông (vốn là bạn cũ của Bác), các đồng chí phụ trách địa phương và một số trẻ em tiếp đón nồng nhiệt. Xe đi vào nội thành, Bác vẫy tay chào quần chúng đứng hai bên đường hoan nghênh Bác, vừa chăm chú ngắm nhìn cảnh tượng ở Diên An.
Khi xe đi đến gần chiếc cầu lớn bắc ngang qua sông Diên Thủy, Bác nhờ đồng chí lái xe dừng lại, rồi xuống xe, chắp hai bàn tay chào hỏi thân mật với quần chúng nhân dân, sau đó, nghỉ chân trong phòng khách ở đối diện núi Bảo Tháp. Bác nói:
- Trước kia, ở đây không có phòng khách gì cả.
Bác có nhớ từng ở trong một nhà hang làm phòng khách, do đồng chí Vương Gia Tường sắp xếp cho, nhưng không nhớ nhà hang ấy ở chỗ nào.
Trong thời gian ở thăm Diên An, Bác đã đi thăm nhà Bảo tàng kỷ niệm cách mạng Trung Quốc, Đại lễ đường Trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc ở Dương Gia Lĩnh, trụ sở cũ của Tổng bộ Bát Lộ Quân ở Vương Gia Bình, hầm trú ẩn ở nơi trú ngụ cũ của Mao Chủ tịch ở Phượng Hoàng Sơn, cuối cùng đến thăm nơi ở và làm việc cũ của Mao Chủ tịch trong nhà hang ở Tảo Viên.
- Đúng rồi, Bác nhớ rồi! Bác nói. Vừa đi ra khỏi nhà hang Bác nói vui vẻ:
- Năm 1938, Bác ở đây này, Bác còn nhớ, lúc ấy là mùa đông, Bác rửa một chiếc khăn tay phơi ở trước của nhà hang tưởng đã phơi khô, lấy gập lại thì bị đứt rách, té ra nó chưa khô đâu, mà là bị đông cứng. Hỏi lại một đồng chí lão thành ở địa phương từng làm công tác ở Diên An vào lúc đó, đồng chí ấy cho biết, hồi năm 1938, đồng chí Mao Trạch Đông cũng ở Phượng Hoàng Sơn, nơi này là phòng khách của Bộ xã hội dùng để đón tiếp những đồng chí nước ngoài. Tất cả mọi người đều vui mừng. Nhớ lại những ngày sống ở Diên An, ăn không quen cơm kê, hạt kê nhỏ bé lăn trong miệng, như nhai không tới. Sau đó dần dần quen, thấy cơm kê cũng ngon. Nói đến đây, Bác dừng một lát, rồi nói tiếp:
- Trước đây Diên An có bao nhiêu dân?
- Có khoảng 5 vạn người gồm cán bộ các cơ quan và bộ đội.
Để hoan nghênh Bác Hồ, các cháu thanh thiếu niên Diên An đã tổ chức buổi dạ hội văn nghệ. Chương trình biểu diễn vừa kết thúc, Bác vui vẻ bước lên sân khấu, chỉ huy cả hội trường hát vang lên bài “Đông Phương Hồng”.
Khi sắp rời khỏi Diên An, Bác nhận lời thỉnh cầu của các đồng chí địa phương vui vẻ cầm bút lông viết một dòng chữ Hán:
“Diên An là nơi bắt nguồn của cuộc cách mạng Trung Quốc”.
Trong thời gian ở thăm Trung Quốc, với nhiều hình thức khác nhau, Bác Hồ đã giới thiệu rộng rãi cho các anh em cán bộ và nhân dân Trung Quốc về cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước ở Việt Nam, tỏ rõ mối tình thắm thiết của nhân dân Việt Nam đối với Trung Quốc. Trong khi Bác nghỉ phép ở Hoàng Sơn, Bác nhận lời mời, đã diễn thuyết cho toàn thể anh chị em làm việc ở đó. Cả hội trường tràn đầy bầu không khí nhiệt liệt và sôi nổi từ trước tới nay chưa từng có. Bất cứ Bác Hồ đến đâu, mối tình hữu nghị Trung - Việt và ủng hộ Việt Nam chống Mỹ lập tức trở thành nhạc điệu chính.
Bác Hồ thật xứng đáng là người sứ giả hữu nghị của nhân dân Việt Nam và người bạn thân thiết của nhân dân Trung Quốc…
Ngày 16-5-2009, ông Văn Trang cùng các cán bộ, bác sĩ, y tá chữa bệnh cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Trung Quốc và Việt Nam đã có dịp trở lại Việt Nam theo lời mời của Hội Việt - Trung hữu nghị trong buổi “Gặp gỡ trên quê hương Bác Hồ “tổ chức trên Quê hương Nghệ An. Đoàn rất xúc động có dịp thăm lại nơi ở và làm việc của của Bác Hồ trong Phủ Chủ tịch. Thời gian đã trôi đi nhưng ấn tượng về Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn in đậm trong Ông Văn Trang, trở thành nguồn động lực thôi thúc ông viết những dòng hồi tưởng bày tỏ tình cảm sâu sắc về những năm tháng ông được ở gần Bác. Những dòng hồi ký đã minh chứng cho hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại chiến khu ATK và khu Phủ Chủ tịch tại Hà Nội. Qua đó, thể hiện được tình cảm tốt đẹp của Người đối với nhân dân Trung Quốc nói chung và ông Văn Trang nói riêng./
Cù Thị Ban/Phòng Sưu tầm-Kiểm kê-Tư liệu
Theo ditichhochiminhphuchutich.gov.vn
Anh Thư (st)